1. Hợp đồng tín dụng là gì?
Hợp đồng tín dụng là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) và tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện hợp pháp (bên vay). Theo đó, tổ chức tín dụng cam kết ứng trước một khoản tiền cho khách hàng vay để sử dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi trên cơ sở tín chấp.
đặc trưng
– Một bên trong hợp đồng là tổ chức tín dụng, một bên là tổ chức, cá nhân. - Hình thức bắt buộc của hợp đồng phải được soạn thảo, ghi rõ nội dung bắt buộc
– Rủi ro cao do hợp đồng có số tiền lớn
Nội dung của hợp đồng
Các bên trong hợp đồng bao gồm bên vay và bên cho vay
– Khoản vay: số tiền vay, mục đích vay, lãi suất vay, thời hạn vay.
- Giấy bảo đảm tiền vay
– Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng
– Vi phạm hợp đồng, cách xử lý vi phạm, yếu tố vi phạm
– Hiệu lực của hợp đồng bắt đầu và kết thúc
- Thương lượng các hợp đồng khác nếu các bên có
=> Phải tuân thủ pháp luật về các tổ chức tín dụng, quy chế tín dụng và các văn bản có liên quan
Các thỏa thuận khác
Tổ chức tín dụng có thể ấn định thời hạn trả thêm nhưng thời hạn gia hạn phải được hai bên thoả thuận, lãi suất gia hạn phải được hai bên thoả thuận, lãi suất không được vượt quá 150% lãi suất đã ký kết. lãi suất hợp đồng. .
- Điều chỉnh kỳ hạn: khi hợp đồng đang được thực hiện mà đến hạn không có khả năng thanh toán thì tổ chức tín dụng có thể xem xét cho phép thanh toán vào một ngày đến hạn sau. Nếu không thực hiện điều này, tổ chức tín dụng có thể coi là chậm trả, vi phạm hợp đồng.
2. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp:
Ở Việt Nam, các tổ chức tín dụng chủ yếu cho vay trên cơ sở kỳ hạn có bảo đảm bằng tài sản. Điều này cũng dễ hiểu bởi về bản chất, các tổ chức tín dụng không có năng lực và kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt. Vì vậy, muốn an toàn trong hoạt động cho vay chỉ có thể trông chờ vào “cứu cánh” được coi là hiệu quả nhất, đó là yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo cho việc cho vay để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Các tổ chức tín dụng.
Hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp có các đặc điểm pháp lý sau đây:
- Thứ nhất, trong hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng vật giả sử bất động sản, do bên thế chấp không phải chuyển giao tài sản thế chấp cho bên cho vay giả định là tổ chức tín dụng nên việc kiểm soát của bên thế chấp đối với chứng khoán khó khăn hơn một chút. Điều này ít ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của tổ chức tín dụng khi đến hạn trả nợ, vì trên thực tế tài sản thế chấp cho một hoặc nhiều khoản vay của tổ chức tín dụng luôn nằm tại tổ chức tín dụng đó”. sự coi giư". của bên thế chấp hoặc của người thứ ba được chỉ định hoặc ủy quyền quản lý tài sản thế chấp trong thời hạn thế chấp. Đôi khi, do quy định của pháp luật về thế chấp tương đối “thoáng”, bên thế chấp có thể yêu cầu tổ chức tín dụng cho phép bán tài sản thế chấp hoặc cho bên thứ ba thuê trong thời gian ngay của quá trình thế chấp. Chính đặc điểm này đã mang lại cho bên cho vay là tổ chức tín dụng những giải pháp khác để hỗ trợ quá trình quản lý khoản vay và tránh rủi ro tín dụng khi người vay không trả được nợ, trong khi tài sản cầm cố khó kiểm soát.
-Thứ hai, trong các hợp đồng tín dụng có bảo đảm nói chung và được bảo đảm bằng thế chấp bất động sản nói riêng, giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp (hợp đồng bảo đảm bằng tiền) luôn tồn tại mối quan hệ về hiệu lực. Mối quan hệ này khá phức tạp nên đòi hỏi các bên phải có lương tâm trong sáng để tự bảo vệ mình, ngăn ngừa rủi ro thiệt hại cho mình. Chẳng hạn, khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì hậu quả pháp lý đối với hợp đồng thế chấp và ngược lại sẽ như thế nào? Thực vậy, trong mỗi trường hợp, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ phát sinh những hệ quả khác nhau và do đó, mỗi bên phải nắm vững các quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình một cách hiệu quả và đúng pháp luật.
Những phân tích trên đã góp phần làm rõ đặc điểm pháp lý của hợp đồng tín dụng.
3. Phân loại nợ theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng:
- a) Căn cứ vào thời gian sử dụng hữu ích của vốn:
Cho vay ngắn hạn: Là hình thức tổ chức tín dụng cho khách hàng vay tiền với thời hạn vay tối đa là một năm do các bên thoả thuận. Hình thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động thương mại hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng trong thời gian ngắn. – Cho vay trung dài hạn: là các khoản cho vay ngắn hạn với thời hạn thỏa thuận trên một năm. Khách hàng vay sử dụng hình thức này để đáp ứng nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong doanh nghiệp, phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua nhà, phương tiện vận tải, v.v.
- b) Tùy theo tính chất bảo đảm của khoản vay:
Cho vay đảm bảo bằng tài sản: Là hình thức cho vay mà nghĩa vụ hoàn trả khoản vay được bảo đảm bằng tài sản của người đi vay hoặc bên thứ ba. Khoản vay này phải được đảm bảo bằng hình thức chữ ký của hai loại hợp đồng cụ thể là hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, thế chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho phép các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng nên trong trường hợp này, hợp đồng bảo lãnh vay vốn được coi là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo lãnh bằng bất động sản.
Cho vay tín chấp bằng tài sản: Là hình thức cho vay mà nghĩa vụ trả nợ không được bảo đảm bằng tài sản cụ thể, xác định được của người đi vay hoặc bên thứ ba. Thông thường các bên chỉ ký kết một hợp đồng, đó là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm thì tổ chức tín dụng đó vẫn phải lập văn bản cam kết bảo đảm bằng uy tín của mình và chuyển cho tổ chức tín dụng để người đi vay được tổ chức chấp thuận cho vay.
- c) Tùy theo mục đích sử dụng vốn:
Vay thương mại: là hình thức vay mà các bên cam kết sử dụng số tiền vay vào mục đích kinh doanh. Nếu bên vay vi phạm, sử dụng vào mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các biện pháp chế tài thích đáng như đình chỉ sử dụng khoản vay hoặc thu hồi khoản vay trước hạn.
– Vay tiêu dùng: người đi vay thỏa thuận số tiền vay sẽ được sử dụng vào các nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua đồ dùng gia đình, mua nhà, phương tiện đi lại, sử dụng vào mục đích học tập…
- d) Theo phương thức vay:
– Cho vay từng lần: Đối với từng khoản vay, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện các thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng áp dụng phương thức cho vay này khi khách hàng vay có nhu cầu tài chính đột xuất. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng làm hồ sơ vay theo quy định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, doanh nghiệp, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
– Cho vay hợp vốn: theo phương thức này, một nhóm các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay hoặc một phương án vay của một khách hàng; trong đó, một tổ chức tín dụng làm đầu mối giải quyết. Việc cho vay hợp vốn tuân thủ quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức cho vay và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ nhiều kỳ trong thời hạn vay. Cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp nhận cho khách hàng sử dụng số tiền vay trong hạn mức tín dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt từ máy ATM hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức cho vay. Việc cho vay thông qua phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phải tuân thủ các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
– Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay trong một hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư vào dự án. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng và mức thanh toán của hạn mức tín dụng dự phòng.
Khoản vay thấu chi: Khoản vay mà tổ chức cho vay chấp nhận bằng văn bản cho phép khách hàng chi tiêu nhiều hơn số tiền trong tài khoản séc của khách hàng theo quy định của chính phủ và ngân hàng. các nhà cung cấp dịch vụ.
4. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng, với tư cách là một thuật ngữ pháp lý, được hiểu là sự thỏa thuận bằng lời nói hoặc văn bản hoặc bằng cách khác giữa hai hay nhiều chủ thể có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ nhất định trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ đó, có thể đưa ra một định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau: “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoán trả cả gốc và lại, dựa trên sự tín nhiệm”.
Với định nghĩa này, có thể thấy ngoài những dấu hiệu chung của một loại hợp đồng, hợp đồng tín dụng còn có một số đặc điểm đặc trưng sau đây để phân biệt với các chủng loại hợp đồng khác trong giao lưu dân sự và thương mại:
– Về chủ thể: một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là tổ chức, cá nhân thỏa mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định. – Về đối tượng: đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền (bao gồm tiền mặt và các loại bút hoạt động bằng đồng xu). Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng luôn phải là một số tiền cụ thể và phải được các bên thống nhất và ghi rõ trong văn bản hợp đồng.
– Xét về rủi ro: các hợp đồng tín dụng vốn tiềm ẩn rủi ro cao đối với lợi ích của bên cho vay. Thật vậy, theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ được đòi tiền bên vay sau một thời hạn nhất định. Thời hạn của khoản vay càng dài thì rủi ro và sự không chắc chắn càng lớn. Do đó, các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng thường phát sinh với số lượng lớn hơn và với tốc độ cao hơn so với hầu hết các loại hợp đồng khác.
- Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: trong hợp đồng tín dụng, nghĩa vụ chuyển tiền (giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề của hoạt động cho vay. người vay. Vì vậy, chỉ khi bên cho vay chứng minh được đã chuyển giao khoản vay theo hợp đồng tín dụng cho bên vay thì mới có quyền yêu cầu bên vay thực hiện các nghĩa vụ của mình (kể cả các nghĩa vụ chính như sử dụng vốn vay vào mục đích tốt). ; nghĩa vụ hoàn trả vốn vay đúng hạn cả gốc và lãi, v.v.)
5. So sánh hợp đồng nhượng quyền thương mại với hợp đồng tín dụng:
Tóm tắt các vấn đề:
Các luật sư giúp tôi tư vấn giúp tôi vấn đề: So sánh hợp đồng nhượng quyền thương mại với hợp đồng tín dụng.
Luật sư tư vấn:
Điểm giống nhau: Đều là hợp đồng thỏa thuận giữa các bên nhằm đạt được mục đích mà các bên đã thống nhất và chủ thể có thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Bên cạnh những điểm tương đồng, có sự khác biệt rõ ràng giữa hai hợp đồng:
Nội dung đầu tiên:
Hợp đồng tín dụng là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng với tư cách là bên cho vay chuyển cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích cụ thể trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
- Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hợp đồng thương mại, theo đó bên nhượng quyền ủy quyền và nghĩa vụ cho bên nhận quyền thực hiện việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với các điều kiện sau đây:
Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ phải được thực hiện theo phương thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và gắn với thương hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh. , logo công ty, quảng cáo bên nhượng quyền.
Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và hỗ trợ bên nhận quyền trong việc điều hành hoạt động kinh doanh.
Thứ hai về tính chất:
Hợp đồng tín dụng là một hợp đồng cho vay giữa bên đi vay và bên cho vay.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một hợp đồng thương mại nhằm mục đích nhượng quyền thương mại có điều kiện
Thứ ba về chủ đề
Đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền, các chủ thể này có thể là thể nhân hoặc pháp nhân, là công dân hoặc nước ngoài. Đối với hợp đồng tín dụng, chủ thể lớn hơn thường là chính phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng, tổ chức quốc tế, công ty hoặc cá nhân phụ thuộc hoàn toàn vào quan hệ tín dụng.
Thứ tư, về hình thức:
Đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại, mục 285 Luật Thương mại 2005 quy định hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được giao kết bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (bao gồm telex, fax, điện báo, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác do pháp luật quy định) và hợp đồng tín dụng. .
Đối với hợp đồng tín dụng: cũng phải được lập thành văn bản, bao gồm các điều kiện cho vay, đối tượng cho vay, hình thức cho vay, số tiền cho vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo lãnh, giá trị bảo lãnh, phương thức trả nợ và các cam kết khác do các bên thoả thuận.
Thứ năm, về ngôn ngữ hợp đồng:
Đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại phải có tiếng Việt, trừ trường hợp nhượng quyền thương mại từ Việt Nam ra nước ngoài thì ngôn ngữ trong hợp đồng do các bên thỏa thuận (Điều 12 Nghị định 35/2006/NĐ-CP) Luật Thương mại chi tiết về nhượng quyền thương mại).
Đối với hợp đồng tín dụng không nhất thiết phải có tiếng Việt do các bên thỏa thuận.
Nội dung bài viết:
Bình luận