Hình thức của hợp đồng bảo lãnh và các vấn đề liên quan

1. Bảo hành là gì? 

Khái niệm biện pháp bảo lãnh được quy định  tại Khoản 1 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015: 

 

 Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với chủ nợ (sau đây gọi là bên  bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên nợ (sau đây gọi là chủ nợ). chủ nợ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn thực hiện nghĩa vụ.  

 2. Hình thức  biện pháp bảo lãnh 

 Theo điều 362 BLDS cũ thì việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản.  Điều 362. Hình thức bảo lãnh 

 

 Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.  trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng, chứng thực. 

  Tuy nhiên,  quy định về biện pháp bảo lãnh của Bộ luật Dân sự năm 2015  không quy định cụ thể về hình thức  bảo lãnh.  

 Theo thông tư 18/2012/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng, có hai hình thức  cam kết bảo lãnh là thư bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh.  

 

 Bảo lãnh ngân hàng (sau đây gọi là bảo lãnh) là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận. 

 

 

 Theo khoản 9 Điều 3 Thông tư 18/2012/TT-NHNN: 

 

 Cam kết bảo lãnh là văn bản bảo lãnh của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh theo một trong các hình thức sau: 

 

  1. a) Thư bảo lãnh là văn bản cam kết của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; 

 

  1. b) Hợp đồng bảo lãnh là văn bản thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và các bên có liên quan (nếu có) về việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; 

 

  1. c) Hình thức cam kết khác do các bên tự thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật Việt Nam. 

 

  Như vậy, khi các tổ chức tín dụng đứng ra làm người bảo lãnh thì việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Còn trong trường hợp nếu bên bảo lãnh không phải là tổ chức tín dụng thì việc bảo lãnh không nhất thiết phải lập thành văn bản. 

  Việc Bộ luật dân sự năm 2015 không quy đinh về hình thức của bảo lãnh là một điểm tích cực. Bởi lẽ, việc không quy định về hình thức của bảo lãnh sẽ giúp các bên linh hoạt, chủ động hơn trong việc xác lập quan hệ bảo lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn hình thức lập thành văn bản, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật có quy định phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký  theo quy định này. 

 

 Tuy nhiên, do không phải bằng văn bản nên nếu  bên bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ thay cho bên nhận bảo đảm thì  sẽ rắc rối lớn. Rõ ràng, bên  bảo lãnh không có chứng cứ, tài liệu  chứng minh việc bên bảo lãnh đưa ra bảo lãnh, do đó, quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh của bên  bảo lãnh sẽ không thể thực hiện được. 

 Luật pháp của nhiều quốc gia trên thế giới  yêu cầu thể hiện  bảo hành bằng văn bản. Việc yêu cầu bảo hành được thực hiện bằng văn bản cho phép chúng tôi dễ dàng nhận ra sự tồn tại của bảo hành và nói chung, yêu cầu giao dịch  bằng văn bản chỉ đóng vai trò là bằng chứng (bằng chứng về sự tồn tại của giao dịch). Tuy nhiên, trách nhiệm của bên bảo lãnh là rất lớn (phải thực hiện nghĩa vụ của người khác) nên có  luật như  luật  Đức quy định văn bản yêu cầu là điều kiện để bảo lãnh có hiệu lực. 

 Vì vậy, để bảo vệ  giao dịch tài sản thế chấp của chính mình, mỗi người nên chủ động trong việc lựa chọn hình thức tài sản thế chấp, tốt nhất là các bên phải thỏa thuận việc tài sản thế chấp được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực để khi xảy ra tranh chấp, vướng mắc. các bên  bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 

  3. Người bảo lãnh có phải đóng phí cho người bảo lãnh không?  

Theo quy định tại Điều 337 Bộ luật Dân sự 2015: 

 

 Điều 337. Thù lao 

 

 Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thỏa thuận. 

  Thông thường, trong quan hệ tài sản thế chấp, bên thế chấp và bên bảo lãnh có  quan hệ gia đình hoặc thân thích nên tài sản thế chấp thường không có giá trị bồi thường. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận về mức thù lao mà bên bảo lãnh nhận được  từ bên  bảo lãnh. Trường hợp công việc ký quỹ là hoạt động kinh doanh của công ty như nghiệp vụ ký quỹ Ngân hàng thì việc trả thù lao theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Ví dụ: A  bảo lãnh cho B vay tiền của C, A và B có thỏa thuận là mỗi tháng B sẽ trả cho A  1 triệu đồng để bù đắp. 

 4. Chưa đến hạn, bên  bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho mình không? 

 Theo quy định tại khoản 2 điều 339 BLDS 2015: 

 

 Bên  bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ nợ khi nghĩa vụ chưa đến hạn. 

  Theo nguyên tắc chung của bảo lãnh, nếu chủ nợ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện  toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh. Trong trường hợp này không  phải chứng minh tại sao chủ nợ không thực hiện nghĩa vụ mà nghĩa vụ bảo đảm phát sinh ngay sau khi chủ nợ không thực hiện nghĩa vụ. 

 Trường hợp các bên có thoả thuận  bên bảo đảm chỉ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ khi chủ nợ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ, khi chủ nợ hoàn toàn không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho chủ nợ có bảo đảm. tiệc tùng. 

 Trong thời hạn thực hiện nghĩa vụ chính, chủ nợ phải tự mình thực hiện nghĩa vụ, nếu chủ nợ xét thấy mình hoàn toàn không có khả năng thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh chưa bị ràng buộc thực hiện nghĩa vụ thay khi hết hạn bảo hành nghĩa vụ , trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 

 

 Khi bên có quyền và bên  có quyền phát sinh nghĩa vụ lẫn nhau có nghĩa là bên  bảo lãnh phải đồng thời  thực hiện một nghĩa vụ đối với bên có quyền mà hai nghĩa vụ này có khả năng bù trừ cho nhau. Theo quy định tại Điều 378 Bộ luật dân sự thì các bên phải bù trừ nghĩa vụ cho nhau nên trong trường hợp này nếu chủ nợ không còn nghĩa vụ thì bên bảo lãnh cũng không có nghĩa vụ bảo lãnh. 

 5. Đồng trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành 

 Nghĩa vụ liên đới theo BLDS 2015 là nghĩa vụ do nhiều người cùng  thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu một trong  những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. 

  Theo quy định tại Điều 338 Bộ luật dân sự 2015, khi một số người cùng bảo đảm một nghĩa vụ thì họ phải cùng nhau thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh thành các phần độc lập. thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. 

  Khi một  trong  những người bảo lãnh liên đới và một số người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho người bảo lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn lại  thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình. 

  Như vậy, chúng tôi lưu ý rằng việc nhiều người  bảo lãnh cho một người có thể làm phát sinh nghĩa vụ liên đới và nhiều nghĩa vụ. 

 6. Miễn  nghĩa vụ bảo hành 

 

 Theo điều 341 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: 

 

 Điều 341. Miễn  thực hiện nghĩa vụ bảo hành 

 

  1. Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên có quyền miễn trừ việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên có quyền không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên  bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 
  2. Trường hợp chỉ một trong số những người cùng bảo lãnh và một số người được miễn  nghĩa vụ bảo lãnh  thì những người còn lại vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 3. Trường hợp một trong các bên bảo lãnh cùng miễn trừ cho bên bảo lãnh  thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với các bên bảo lãnh liên kết. 

 

 Khi chủ nợ không thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ này được chuyển giao cho bên bảo lãnh nên khi chủ nợ từ bỏ nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh thì nghĩa vụ chấm dứt theo quy định tại khoản 3 Điều 372 Bộ luật dân sự 2015, do đó bên bảo lãnh không còn bị ràng buộc phải thực hiện nghĩa vụ này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. 

 Trong trường hợp có nhiều người  bảo lãnh liên đới và nhiều người bảo lãnh thì khi một người được miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì phần nghĩa vụ đó chấm dứt thì những người bảo lãnh khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 

 Khi có nhiều bên bảo lãnh liên đới và nhiều bên  bảo lãnh mà bên chủ nợ không thực hiện nghĩa vụ thì bên bảo lãnh có quyền  yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho những bên bảo lãnh khác. Trường hợp bên bảo lãnh từ bỏ nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với bên bảo lãnh liên quan.




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo