Hiệu lực của văn bản áp dụng pháp luật [Chi tiết 2024]

1. Khái niệm hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật 

Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) là tính bắt buộc của việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định, trong một không gian nhất định và đối với những chủ thể pháp luật nhất định (cá nhân, người, cơ quan, tổ chức). 

hiệu lực của văn bản áp dụng pháp luật

hiệu lực của văn bản áp dụng pháp luật

 

2. Về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật 

Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là thời điểm văn bản bắt đầu có hiệu lực và có giá trị ràng buộc đối với đối tượng chỉ đạo của nó (trong một không gian xác định). Nói cách khác, kể từ thời điểm này trở đi, các văn bản quy phạm pháp luật có thể được viện dẫn làm căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ việc cụ thể phát sinh trong đời sống xã hội. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 151 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung năm 2020 gồm 02 khoản. Mục 1 quy định nguyên tắc chung đối với trường hợp chung, Mục 2 quy định nguyên tắc đối với trường hợp đặc biệt (văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo pháp lệnh và thủ tục rút gọn). Có thể thấy đây là cách xây dựng luật ngầm, đảm bảo không có ngoại lệ bất thường trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của văn bản, tránh sự tùy tiện của chủ thể ban hành. . Về nguyên tắc có tính phổ cập, văn bản quy phạm pháp luật không được phép có hiệu lực ngay mà thời điểm có hiệu lực phải cách thời điểm văn bản này được thông qua hoặc ký ban hành một khoảng thời gian nhất định tính bằng ngày. Điều này bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức, thực hiện các chủ đề có liên quan cũng như truyền tải đầy đủ thông tin đến người dân, tổ chức là chủ thể trực tiếp của văn bản. Nếu như khoảng thời gian “chờ” tối thiểu 45 ngày đối với văn bản quy phạm pháp luật của trung ương được cho là phù hợp và tiếp tục được kế thừa từ khoản 1 Điều 78 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (sau đây gọi là Luật 2008) thì việc tính thời điểm có hiệu lực đối với văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương có nhiều điểm đổi mới. Thứ nhất, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã thống nhất hóa nguyên tắc “thời điểm có hiệu lực của văn bản phải được quy định ngay trong chính văn bản đó” đối với tất cả các loại văn bản quy phạm pháp luật của tất cả các chủ thể. Trước đây, chỉ văn bản quy phạm pháp luật của trung ương (được điều chỉnh theo Luật 2008) mới bắt buộc phải ghi rõ thời điểm có hiệu lực tại văn bản, còn các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương (được điều chỉnh theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân năm 2004) thì sẽ theo công thức mặc định để nội suy thời điểm bắt đầu có hiệu lực dựa vào ngày nó được thông qua (nếu là Nghị quyết của Hội đồng nhân dân) hoặc ngày nó được ký ban hành (nếu là Quyết định của Ủy ban nhân dân). Chủ thể có thẩm quyền sẽ chỉ ghi rõ thời điểm có hiệu lực vào trong văn bản nếu muốn văn bản đó có hiệu lực muộn hơn so với công thức mặc định. Về điểm này, theo tác giả lối quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 là phù hợp, vừa đảm bảo tinh thần pháp chế, vừa nâng cao trách nhiệm của chủ thể ban hành mà vẫn trao cho họ quyền chủ động nhất định. Chẳng hạn, nghị quyết của HĐND tỉnh thay vì 10 ngày sau khi thông qua mới có hiệu lực thì nay do HĐND quyết định, miễn là không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành. Đối với văn bản quy phạm pháp luật cấp huyện và cấp xã, thời gian chuẩn bị tối thiểu được quy định lại thành một cấp duy nhất là 7 ngày thay vì phân biệt như luật năm 2004 (7 ngày đối với cấp huyện, 5 ngày đối với cấp xã). Đây là điểm hợp lý thứ hai, cách quy định này tạo sự đơn giản hóa trong áp dụng và cũng phù hợp với điều kiện thực tế. Điểm đổi mới thứ ba, cũng được đánh giá là hợp lý và khả thi, đó là không còn sử dụng “ngày phê duyệt” mà Luật hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 thống nhất sử dụng “ngày phê duyệt” 'ký duyệt ban hành' để kiểm soát thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương dù là nghị quyết của Hội đồng nhân dân hay quyết định của Ủy ban nhân dân. Ngoài những điểm tích cực nêu trên, quy định tại khoản 1 Điều 151 còn có một vướng mắc là: luật chỉ dẫn chiếu đến văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương, vậy văn bản quy phạm pháp luật do người có thẩm quyền ở trung ương ban hành thì thời điểm có hiệu lực như thế nào? được xác định? Thông tư của Bộ trưởng, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao hay quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước có nên tuân theo nguyên tắc phổ cập nói trên? Tác giả kiến ​​nghị nên thay cụm từ “cơ quan nhà nước ở trung ương” bằng “cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương” Về nguyên tắc, đối với những trường hợp đặc biệt, văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ngày ký, tùy thuộc vào một số điều kiện liên quan đến việc ban hành văn bản công bố. Nguyên tắc này không mới mà đã được ghi nhận từ luật năm 2008 (việc kéo dài thời hạn đăng Công báo từ 2 lên 3 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành văn bản từ 2 lên 3 ngày không phải là đổi mới không đáng kể). Xét bản thân nội dung của Khoản 1 Điều 151, quy định này là hoàn toàn phù hợp và cần được duy trì nhằm tạo sự linh hoạt cho hoạt động lập pháp, điều chỉnh trong những tình huống cần phải phản ứng nhanh. Tuy nhiên, việc quy định tại Điều 146 các trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn là phù hợp. Nhóm trường hợp thứ nhất quy định tại Điều 1 bao gồm: Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; Những trường hợp bất khả kháng hoặc cấp bách trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tế theo quyết định của Quốc hội. Có tác giả cho rằng quy định này bị trùng lặp bởi trường hợp (ii) đã có trong trường hợp (i). Hơn nữa, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 không liệt kê đầy đủ các trường hợp được coi là tình trạng khẩn cấp mà lại viện dẫn “Đạo luật khẩn cấp”, có thể hiểu là Sắc lệnh khẩn cấp của Nhà nước năm 2002 (vẫn còn hiệu lực đến nay). Tuy nhiên, lệnh nói trên có vẻ là văn bản thuộc nhóm bí mật nhà nước khi không tra cứu được toàn văn trong cơ sở dữ liệu của hệ thống tư pháp. Từ đây làm nảy sinh nghi vấn về nguy cơ tổ chức phát hành lạm dụng việc xây dựng và ban hành chứng từ theo trình tự, thủ tục rút gọn để quy vào “trường hợp khẩn cấp” không thể đối chiếu chính xác là nó có được pháp luật định trước hay không. Về nhóm trường hợp tại Điều 2, có ý kiến ​​cho rằng việc bổ sung này là hợp lý vì văn bản được ban hành nhằm đình chỉ hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật khác trong một thời hạn nhất định. Bản thân định nghĩa không chứa đựng tư tưởng luật hóa mà chỉ xác định lại hiệu lực pháp lý của một văn bản hiện hành nên không cần phải trải qua tất cả các thủ tục như quy trình hoàn chỉnh. Các văn bản này thường có vòng đời ngắn và có giá trị điều chỉnh tạm thời nên cần ưu tiên tính kịp thời, tốc độ trong giai đoạn ban hành. Như vậy, xét cả về mặt thực tiễn và khoa học, việc ủy ​​quyền ban hành văn bản thuộc nhóm này theo thủ tục rút gọn là phù hợp. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa đề cập đến việc ban hành văn bản theo trình tự rút gọn và thủ tục gia hạn hiệu lực của một văn bản quy phạm pháp luật lẽ ra phải hết hiệu lực trên cơ sở khác, đây là tình trạng mà trên thực tế không xảy ra nhiều. , nhưng nó sẽ là không thể tránh khỏi. Về nhóm trường hợp tại khoản 3, tác giả cho rằng cần mở ra thêm cả khả năng ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn để kịp thời thực hiện các ĐƯQT mà nước ta là thành viên, từ đó giải quyết tốt hơn nhu cầu nội luật hóa các ĐƯQT đang dần trở thành một loại nguồn quan trọng của pháp luật Việt Nam. Tác giả kiến nghị sửa đổi theo hướng gộp khoản 2 và khoản 3 Điều 146 lại làm một và bổ sung thêm các khả năng nói trên, có thể nghiên cứu cách diễn đạt như sau: “2. Trường hợp để bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật đã được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc không còn được áp dụng trên thực tế; ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn và trường hợp cần ban hành ngay văn bản để thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” 

3. Về hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật

 Hiệu lực trở về trước hay còn gọi là hiệu lực hồi tố là một vấn đề phức tạp trong khoa học pháp lý. Về nguyên tắc, pháp luật không có tính chất hồi tố mà hiệu lực của nó phát huy theo chiều xuôi thời gian tính từ thời điểm có hiệu lực, nói cách khác văn bản chỉ có giá trị điều chỉnh lên những hành vi được thực hiện sau thời điểm nó được ban hành. Việc sử dụng văn bản để hủy bỏ điều chỉnh vụ việc xảy ra trước thời điểm văn bản có hiệu lực chỉ được thực hiện trong những trường hợp “thật cần thiết”. Điểm mới tích cực của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 là đã đưa ra giới hạn làm rõ đâu là án lệ thực sự cần thiết tại khoản 1 điều 152, đâu phải là án lệ “bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện quyền quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội” (luật 2008 chỉ nói “những trường hợp cần thiết” của (một cách rất chung chung). Một hạn chế nữa được đặt ra là loại quy phạm pháp luật văn bản có hiệu lực hồi tố chỉ là văn bản quy phạm pháp luật của “cơ quan trung ương” Khoản 3 Điều 152 cũng quy định “văn bản của cơ quan pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp và chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt không được phép có hiệu lực trở lại. trước". Về bản chất, quy định này có thể được suy ra từ Điều 1, nhưng cách quan niệm như vậy không hoàn toàn trùng lặp và do đó là cần thiết để thể hiện tính thống nhất của pháp luật. Khoản 2 Điều 152 quy định hai trường hợp tuyệt đối không được áp dụng hồi tố, đó là trường hợp việc áp dụng hồi tố văn bản mới sẽ bất lợi hơn cho đối tượng bị áp dụng so với mức quy định trong văn bản đang có hiệu lực tại thời điểm áp dụng. hành động được thực hiện. Mặc dù điều kiện quy định hồi tố theo Mục 152 là rất chặt chẽ nhưng vẫn có những điểm chưa hợp lý gây khó khăn cho việc áp dụng. Trước hết, cách xác định ngược điều kiện có hiệu lực của quy định (ở đây chỉ nói đến việc xác lập quy định chứ chưa nói đến việc áp dụng các quy định này) chưa đảm bảo logic. Thông thường, khi xây dựng quy phạm pháp luật, nhà lập pháp sử dụng phương pháp liệt kê hoặc phương pháp loại trừ, Điều 152 trộn lẫn hai phương pháp này. Một số tác giả cũng đã góp ý và nêu băn khoăn về việc nên quy định xuôi hay ngược khi quy định các điều kiện cấp phép có hiệu lực hồi tố. Thứ hai, theo tác giả, không thể có cái gọi là hiệu lực hồi tố của văn bản mà chỉ có hiệu lực hồi tố của (một hoặc nhiều) quy định pháp luật cụ thể trong văn bản. Không có văn bản pháp luật nào được tạo ra chỉ nhằm mục đích giải quyết các vụ án đã qua, mà về nguyên tắc, hầu hết các quy định của nó phải được sử dụng làm cơ sở pháp lý cho các sự kiện pháp lý sẽ xảy ra trong tương lai, chúng phải có hiệu lực đúng lúc. Như vậy, nên sửa tên Điều 152 thành: “Văn bản quy phạm pháp luật có quy định về hiệu lực hồi tố”. Cách hiểu như vậy cũng sẽ phù hợp với tinh thần của Khoản 1 Điều 156 về nguyên tắc thi hành văn bản quy phạm pháp luật: “Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực hồi tố thì áp dụng quy định đó.” Tuy nhiên, có một vướng mắc lớn liên quan đến nguyên tắc tại khoản 4 điều 156. Kết quả là: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra thì trước thời điểm văn bản có hiệu lực thi hành thì áp dụng văn bản mới”. Quy định này mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 152 khi cho phép chủ thể có thẩm quyền chỉ dựa vào nội dung của hành vi pháp lý (hành vi mới có lợi hơn cho mục đích áp dụng pháp luật) để áp dụng hồi tố mà không cần ràng buộc chính thức rằng bản thân văn bản có chứa một điều khoản quy định có hiệu lực hồi tố. Thiếu sót thứ ba này tiếp tục dẫn đến thiếu sót thứ tư: nếu dựa vào nội dung của văn bản quy phạm pháp luật để quyết định khả năng có hiệu lực hồi tố thì “trách nhiệm pháp lý” nên được hiểu như thế nào. Theo truyền thống, trách nhiệm pháp lý trong khoa học pháp lý thường được hiểu là nghĩa vụ gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi phát sinh do chủ thể vi phạm pháp luật hoặc do một số động cơ khác liên quan đến việc vi phạm pháp luật. Theo nghĩa này, áp dụng mức thuế nhẹ hơn đối với đối tượng chịu thuế không phải là “nhẹ trách nhiệm hơn”, mà chỉ đơn giản là “mức độ trách nhiệm thấp hơn”. Việc Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 không giải thích rõ thuật ngữ “trách nhiệm pháp lý” đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau và trên thực tế, một số chủ đề đã “bình đẳng hóa” các khái niệm nêu trên trong thực thi pháp luật. . Vì vậy, tác giả đề nghị bỏ khoản 4 Điều 156 để khắc phục những mâu thuẫn này. Cuối cùng, khi sửa đổi, bổ sung Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 cũng cần xem xét có cần quy định thời điểm áp dụng hồi tố hay không. Như đã nói, bản chất sám hối là thuộc tính của từng tiêu chuẩn riêng, không phải của toàn bộ văn bản nên nó có tính độc lập tương đối với thời điểm văn bản có hiệu lực. Thực tiễn cho thấy, tùy theo “mức độ có lợi”, “mức độ phù hợp với con người” của tiêu chuẩn, cơ quan có thẩm quyền phân biệt các quy định có hiệu lực hồi tố thành hai nhóm: Các quy định có hiệu lực hồi tố kể từ ngày công bố và Quy định có hiệu lực hồi tố kể từ thời điểm văn bản quy phạm pháp luật có quy định đó có hiệu lực. Theo đó, có thể cho phép linh hoạt cả hai như trên nhưng cần xây dựng cơ sở pháp lý trong luật. 

4. Về trường hợp văn bản quy phạm pháp luật bị vô hiệu 

Hành vi pháp luật đã có hiệu lực có thể bị vô hiệu tạm thời theo một trong hai căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 153. Dễ dàng nhận thấy, hành vi pháp lý bị vô hiệu thì việc chấm dứt không nhất thiết là có khiếm khuyết về mặt pháp lý. nội dung. hoặc hình thức. Quy định tại điểm b cho phép chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định đình chỉ hiệu lực của văn bản này (bằng văn bản khác được ban hành theo thủ tục rút gọn nêu trên) khi diễn biến của điều kiện kinh tế - xã hội khách quan đặt ra những vấn đề mới có không được xem xét đầy đủ tại thời điểm viết. Đây là điểm mới có ý nghĩa rất tích cực so với các luật trước đây và đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của thực tiễn nhưng chưa thực sự thống nhất với các quy định về biện pháp xử lý văn bản. Vì theo tinh thần của Điều 153, “bản án” tại điểm a, khoản 1 là quy chế pháp lý xuất phát từ hậu quả của việc áp dụng biện pháp “tạm đình chỉ”, còn hiệu lực đình chỉ tại điểm b khoản 2 là như tên của một điều trị cụ thể. Tuy nhiên, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 chưa ghi nhận “hủy hiệu lực” là một biện pháp xử lý độc lập bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ, đình chỉ (khoản 12). . Một điểm khác mà người viết cũng cho là bất hợp lý là cụm từ “cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” xuất hiện khá khiên cưỡng tại Điều 1 và nếu bỏ hẳn thì cũng không ảnh hưởng gì. nội dung của quy định này, như Điều 2 đã chỉ rõ: “Thời điểm chấm dứt hiệu lực, thu hồi hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản được quy định rõ trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Tác giả đề nghị bỏ câu trên. Ngoài ra, cũng cần nghiên cứu xây dựng một quy phạm pháp luật mới quy định về việc lùi ngày có hiệu lực (thời hạn thi hành) của một văn bản quy phạm pháp luật được công bố. Từ thực tiễn của Bộ luật Hình sự năm 2015 vừa qua, có thể thấy, có trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật không được công bố nhưng sau khi công bố đã phát hiện ra những thiếu sót nghiêm trọng mà do văn bản này chưa chính thức có hiệu lực. , do đó không thể áp dụng thời gian tạm dừng thực thi. Do đó, cần phải có cơ sở pháp lý cho việc “hủy bỏ” điều khoản thi hành được quy định trong chính đạo luật hoãn thi hành, cũng như việc xác định lại ngày có hiệu lực theo cơ sở mới. 

5. Về trường hợp văn bản quy phạm pháp luật bị vô hiệu

 Căn cứ vô hiệu văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Mục 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 về cơ bản là hợp lý, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, thuận lợi trong việc xác định thời điểm hết hiệu lực của văn bản. Trong đó, căn cứ nêu tại khoản 4 là sự bổ sung cần thiết, thực chất là khôi phục một phần nội dung của khoản 4, mục 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (gọi tắt là Luật 1996). ). Tuy nhiên, cơ sở này được cụ thể hóa thành một nguyên tắc tuyệt đối không có ngoại lệ như luật 1996 “trừ trường hợp được giữ nguyên toàn bộ hoặc một phần vì vẫn phù hợp với quy định của văn bản luật mới. “. Có thể thấy quy định tại Khoản 4, Điều 154 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 có sự thống nhất như thế nào với một số quy định khác về văn bản quy định chi tiết thể hiện chủ trương chung là “văn bản quy phạm pháp luật”. có hiệu lực đồng thời với thời điểm văn bản hoặc điều, khoản, điểm quy định có hiệu lực”. Điều này có nghĩa là khi cơ quan có thẩm quyền chuẩn bị một dự thảo luật để thay thế một luật hiện hành chẳng hạn, thì cơ quan đó cũng phải chuẩn bị một dự thảo nghị định để thay thế một cách chi tiết nghị định của luật này. Mục đích của chính sách này nhằm hạn chế tối đa tình trạng tồn đọng văn bản cũng như nâng cao trách nhiệm giải trình của chủ thể ban hành, hạn chế tình trạng quy định tràn lan văn bản quy định chi tiết cho cấp dưới… Nhưng theo nhiều tác giả, quy định cứng nhắc như trên là như vậy. có phần không phù hợp với điều kiện thực tế và tính tự nguyện. Thực tiễn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 trong thời gian qua cũng cho thấy, có nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu này, mặc dù luật đã quy định rõ điều này. Hơn nữa, ngay cả khi 100% các văn bản quy định chi tiết có hiệu lực đồng thời với văn bản quy định chi tiết thì nội dung của nó cũng ít khi khác 100% so với văn bản quy phạm phiên bản trước. Như vậy, nếu buộc phải thay thế hoàn toàn bằng một văn bản quy định chi tiết mới sẽ dẫn đến lãng phí, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải “công bố lại” những quy định đã có và vẫn còn hiệu lực. Do đó, chúng tôi khuyến nghị rằng ngoại lệ này nên được phục hồi như cách diễn đạt ở cuối khoản 4, mục 18 của Đạo luật 1996. Bất cập thứ hai nằm ở nhóm căn cứ quy định tại Điều 2, theo đó một văn bản quy phạm pháp luật sẽ bị vô hiệu trong trường hợp nó được “sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng một văn bản quy phạm pháp luật mới của Nhà nước”. tài liệu này ". Khác với hủy bỏ (trước đây bao gồm hủy bỏ) gắn với từng trường hợp cụ thể với những điều kiện khác nhau, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế là biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết mà bất kỳ chủ thể nào có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều có thể áp dụng để xử lý tương tự. tài liệu họ đã ban hành trước đó. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật cùng loại thì hiệu lực về toàn bộ nội dung của văn bản bị thay thế đương nhiên chấm dứt. Trong trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật bị sửa đổi, bổ sung bởi một văn bản quy phạm pháp luật cùng loại thì trên thực tế chỉ chấm dứt hiệu lực của nội dung sửa đổi, các nội dung khác vẫn giữ nguyên như cũ. Thông thường, các thao tác sửa đổi, bổ sung đi đôi với nhau và cùng xuất hiện ở một “đầu ra”, nhưng cũng có trường hợp cơ quan có thẩm quyền chỉ ban hành một văn bản quy phạm pháp luật riêng để hoàn thiện một văn bản khác mà không có bất kỳ sự sửa đổi nào. Bản chất của việc bổ sung là bổ sung nội dung mới nên về mặt lý thuyết không ảnh hưởng đến hiệu lực của nội dung cũ chứ chưa nói đến ảnh hưởng của nội dung được bổ sung. Vì vậy, cần bỏ từ “bổ sung” tại khoản 2, điều 154 khi sửa đổi các quy định này.

 6. Về xác định hiệu lực theo không gian và đối tượng áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật

 Nguyên tắc xác định hiệu lực theo không gian và đối tượng tác động của hành vi pháp lý quy định tại Điều 155 có nhiều điểm mới so với quy định trước đây về nội dung này. Trước hết, ngay từ tên gọi, luật chỉ ghi ngắn gọn “hiệu lực về mặt không gian” thay vì “hiệu lực về mặt không gian và đối tượng áp dụng” như luật cũ. Theo tác giả, đây là sự điều chỉnh hợp lý vì hai lý do. Thứ nhất, pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi của con người nên xét cho cùng, hiệu lực về không gian hay kể cả hiệu lực về thời gian nếu tách rời yếu tố con người cũng trở nên vô nghĩa. Vì vậy, việc chỉ gắn hiệu ứng theo đối tượng áp dụng mà “ghép” với hiệu ứng theo không gian là chưa thỏa đáng. Thứ hai, trong hầu hết các trường hợp, hiệu lực theo đối tượng áp dụng của văn bản sẽ được quy định cụ thể trong chính văn bản đó, có nhiều văn bản từ trung ương nhưng chỉ tác động hạn chế đối với một số nhóm đối tượng nhất định như người cao tuổi, phụ nữ, con, cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang... mà không phải tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức có mặt trên lãnh thổ. Theo đó, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật không cần thiết lập nguyên tắc chung, không mang tính điển hình nên hầu hết các tình huống thực tế đều thuộc trường hợp ngoại lệ. Điều 155 chỉ nên thiết lập các nguyên tắc cụ thể để xác định hiệu lực về không gian. Tuy nhiên, với tên gọi như vậy (Hiệu lực không gian) thì nên sửa lại nội dung của Điều 155 theo hướng không còn đề cập đến hiệu lực đối với chủ thể của yêu cầu, việc duy trì cụm từ “đối tượng của yêu cầu” vẫn xuất hiện khá vô duyên trong Khoản 2, không phù hợp với nội dung đã chỉ ra trong tiêu đề của bài báo. Thảo luận cụ thể về nguyên tắc xác lập hiệu lực về mặt không gian của văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cũng bộc lộ nhiều bất cập. Thứ nhất, đối với văn bản cấp trung ương, hiệu lực về mặt không gian sẽ được xác định là “quốc gia” nếu nó không thuộc các trường hợp được xác định bởi các căn cứ đặc biệt khác được luật pháp liệt kê. Tuy nhiên, không có cơ sở nào tạo ra ngoại lệ cho nguyên tắc này là thực sự khoa học. Trước tiên, tác giả xin phân tích căn cứ thứ hai: văn bản quy phạm pháp luật của trung ương sẽ không có hiệu lực thi hành trong phạm vi cả nước nếu điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với “nguyên tắc linh hoạt” của điều ước có lợi thế trong việc áp dụng so với luật quốc gia được thể hiện xuyên suốt trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, mà chỉ đề cập đến điều ước quốc tế theo đối với tác giả là chưa đủ. Bởi nguyên tắc xác lập hiệu lực về mặt không gian của hành vi pháp lý có yếu tố nước ngoài, đặc biệt liên quan đến vấn đề thẩm quyền xét xử, chủ yếu xuất phát từ tập quán quốc tế mà ít được ghi nhận trực tiếp trong điều ước. Đối với các căn cứ khác, văn bản quy phạm pháp luật của trung ương cũng sẽ không có hiệu lực trên toàn quốc nếu văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên có thẩm quyền quy định khác. Quy định này rất phi thực tế, thực tiễn cho thấy có những văn bản đã vượt hẳn quy định. Một dẫn chứng điển hình chính là Bộ luật Hình sự năm 2015, hiệu lực theo không gian của bộ luật này được xác định rất rộng, là sự kết hợp phức tạp của một loạt nguyên tắc khác nhau: nguyên tắc lãnh thổ chủ động, nguyên tắc lãnh thổ mở rộng, nguyên tắc lãnh thổ bị động, nguyên tắc quốc tịch chủ động, nguyên tắc quốc tịch bị động, nguyên tắc thẩm quyền phổ cập… Trong khi đó, Luật Ban hành văn bản quy phạm luật năm 2015 chỉ thừa nhận trực tiếp nguyên tắc lãnh thổ chủ động như là nguyên tắc chủ đạo. Như vậy, theo tinh thần của Khoản 1 Điều 155, Bộ luật hình sự không thể có hiệu lực về không gian rộng như cách hiểu hiện nay nếu hiệu lực đó không được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật của “cấp trên”. Vấn đề nằm ở chỗ, bản thân Bộ luật hình sự do Quốc hội ban hành mà Quốc hội đã là cơ quan lập pháp tối cao nên trên Quốc hội không còn thiết chế nào khác thỏa mãn. Từ những phân tích đó, tác giả kiến nghị sửa đổi Khoản 1 Điều 155 như sau: “Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ở trung ương có hiệu lực trong phạm vi cả nước trừ trường hợp văn bản đó có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận có cách xác định khác”. Nguyên tắc xác định hiệu lực về không gian đối với văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành cũng cần phải được xem xét để chỉnh sửa lại. Theo tinh thần của Điều 155 khoản 2, đây là nguyên tắc tuyệt đối, không có ngoại lệ. Nếu một văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở một đơn vị hành chính đã được quy định thì luôn có hiệu lực thi hành trong phạm vi đơn vị hành chính đó, thì việc “và được quy định cụ thể trong văn bản này” trở nên vô nghĩa và thừa, vì chỉ căn cứ vào chủ đề của vấn đề là đủ. Bản thân việc quy định hiệu ứng không gian trong văn bản chỉ có ý nghĩa khi pháp luật cho phép chủ thể ban hành quy định này khác với cách xác định chung. Thực tế có trường hợp văn bản cấp tỉnh chỉ điều chỉnh một số huyện trong tỉnh, hoặc văn bản cấp huyện chỉ điều chỉnh một số xã trong huyện.

 7. Mối quan hệ giữa thể thức công bố văn bản quy phạm pháp luật và hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật

 Về nguyên tắc, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật không có nội dung liên quan đến bí mật nhà nước đều phải được công khai. 2015 bao gồm: đăng Công báo, đăng công khai tại địa phương, đăng trên Cơ sở dữ liệu pháp luật quốc gia và đưa tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Đối với văn bản ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn còn có hình thức đặc biệt phải được đăng tải trực tiếp trên Cổng thông tin điện tử của cơ quan ban hành (khoản 2 Điều 151). Ý nghĩa của việc quảng cáo văn bản quy phạm pháp luật là không cần bàn cãi, các hình thức quảng cáo trên cũng đã được tính toán sao cho phù hợp với từng loại văn bản và mang tính khả thi. Đặc biệt, Công báo hiện nay được quy định gồm báo in và báo điện tử có giá trị pháp lý như nhau là một bước tiến thể hiện việc ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động lập pháp. Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những ý kiến ​​băn khoăn về các quy định liên quan đến việc công khai văn bản quy phạm pháp luật khi liên quan đến câu hỏi về giá trị pháp lý của văn bản. Văn bản quy phạm pháp luật không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu công khai thì có hiệu lực pháp luật không? Đó là nội dung dường như gây bối rối cho nhà lập pháp. Rõ ràng, việc thiết kế đưa quy định về công khai văn bản vào cùng một chương với quy định về hiệu lực của văn bản thể hiện tư duy pháp lý của nhà lập pháp là giữa chúng có mối quan hệ với nhau. . Quy chế đăng công báo (Điều 150) được đưa ra trước Quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật (Điều 151) là điều kiện tiên quyết để văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực. Tuy nhiên, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 không quy định cụ thể văn bản quy phạm pháp luật nào sẽ không được đăng Công báo, cũng như thời hạn hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật đó cũng như các hình phạt đối với trách nhiệm pháp lý. Để so sánh, luật 2008 quy định rõ “văn bản quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực, trừ trường hợp văn bản có nội dung bí mật nhà nước và các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. Điều". Nghiên cứu hồ sơ dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật) cho thấy, quy định trên cũng đã được đưa vào dự thảo, nhưng sau đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã lược bỏ, do một số đại biểu Quốc hội cho rằng. Tuy nhiên, Quốc hội đã đề nghị giải thích lý do tại sao thiếu sót là mơ hồ và thiếu thuyết phục. Do đó, nếu xác định rõ ràng rằng việc không đăng Công báo không dẫn đến việc văn bản quy phạm pháp luật bị vô hiệu thì không cần thiết. đưa một quy định vào cùng một chương với quy định về hiệu lực thi hành. Trường hợp gộp vào cùng một chương thì nên đưa ra trước điều 157 sẽ đảm bảo tính logic, hệ thống hơn. Thậm chí có thể nghiên cứu để gộp các điều 150 và 157 trong một bài viết vì hiện tại giữa chúng có sự trùng lặp và chồng chéo. Thứ nhất, đăng Công báo chỉ là một hình thức đăng tải văn bản quy phạm pháp luật. Thứ hai, quy định về hình thức “đăng, đưa tin của địa phương” tại khoản 3 Điều 150 lẽ ra phải được điều 157 quy định về tên gọi. Có thể suy ra rằng Điều 150 chỉ tập trung điều chỉnh việc đăng Công báo đối với văn bản quy phạm pháp luật, nhưng do cấp huyện, cấp xã không có Công báo nên các biện pháp nêu trên được thay thế để áp dụng đối với cơ quan nhà nước. Các hội đồng, ủy ban nhân dân huyện, xã vô hình chung tạo ra một quy định chặt chẽ giữa nội dung và tên gọi. Vì vậy, việc bỏ Điều 150 và chuyển toàn bộ nội dung của Điều này sang Điều 157 theo tác giả là phương án hợp lý nhất.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo