Cấu trúc hệ thống giáo dục và Khung trình độ giáo dục Việt Nam

KHUNG CƠ CẤU HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VIỆT NAM 

 Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: 

 Giáo dục mầm non bao gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mầm non; 

 Giáo dục phổ thông bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông; 

 Giáo dục nghề nghiệp  trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng; 

 Giáo dục đại học cấp bằng đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.  * Theo Khoản 2 Điều 1 Quyết định 1981/QĐ-TTg 

 Nội dung quyết định phê duyệt Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân 

 Theo quyết định 1981/QĐ-TTg, cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân được mô tả như trong sơ đồ kèm theo quyết định này. Theo sơ đồ, có thể thấy hệ thống giáo dục  Việt Nam có 8 cấp, từ mẫu giáo  đến tiến sĩ. Vì giáo dục trung học phổ thông được chia thành hai luồng: trung học  bình thường và trung học cơ sở, đại học định hướng nghiên cứu và đại học định hướng ứng dụng, trung học cơ sở là  con đường thăng tiến cho học sinh tốt nghiệp  trung học phổ thông hoặc trung học cơ sở. Ngoài giáo dục chính quy,  giáo dục thường  xuyên được thực hiện ở tất cả các cấp học từ tiểu học trở đi. Cụ thể, sơ lược về hệ thống giáo dục  Việt Nam: 

Khung giáo dục Việt Nam 

Cấu trúc hệ thống giáo dục và Khung trình độ giáo dục Việt Nam
Cấu trúc hệ thống giáo dục và Khung trình độ giáo dục Việt Nam

 GIÁO DỤC MẦM NON 

 Giáo dục mầm non bao gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mầm non. Mục đích của giáo dục mầm non là giúp trẻ  phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ  vào năm đầu tiên; hình thành và phát triển ở trẻ các chức năng tâm - sinh lý, các kỹ năng  và phẩm chất cơ bản, kỹ năng sống  phù hợp với lứa tuổi, đánh thức và phát triển tối đa các năng lực tiềm ẩn, tạo nền tảng cho việc học nâng cao và học  suốt đời. 

  GIÁO DỤC  TRẺ EM 

 Giáo dục mẫu giáo được cung cấp cho trẻ em từ 3 tháng  đến 3 tuổi.  GIÁO DỤC MẪU GIÁO 

 Giáo dục mẫu giáo được trao cho trẻ em từ 3  đến 6 tuổi. 

 ĐÀO TẠO TỔNG HỢP (ĐÀO TẠO CƠ BẢN) 

 Giáo dục phổ thông bao gồm giáo dục tiểu học - cấp I, trung học cơ sở - cấp II (cấp độ giáo dục cơ bản) và  trung học phổ thông - cấp độ III (cấp độ giáo dục  nghề nghiệp). : 

 Giáo dục Tiểu học (TH) 

 Giáo dục tiểu học được cung cấp trong 5 năm học, từ năm thứ nhất đến năm thứ 5. Học sinh sau khi hoàn thành chương trình  tiểu học sẽ tiếp tục học  trung học cơ sở.  

 Giáo dục trung học cơ sở (THCS) 

 Giáo dục trung học cơ sở thu nhận học sinh đã tốt nghiệp tiểu học. 

 Giáo dục trung học cơ sở kéo dài trong 4 năm học, từ năm thứ 6 đến hết năm thứ 9. Sau khi hoàn thành chương trình giáo dục trung học cơ sở, học sinh được học tiếp lên trung học phổ thông hoặc theo học các chương trình đào tạo ở trình độ sơ cấp, trung cấp.  

 Giáo dục trung học  (THPT) 

 Giáo dục trung học phổ thông thu nhận học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Ở bậc phổ thông, học sinh có thể  học liên thông lên chương trình đào tạo trình độ trung cấp nếu có nguyện vọng và đáp ứng  yêu cầu của chương trình.  

  Giáo dục trung học phổ thông diễn ra trong 3 năm học, từ năm lớp 10 đến hết năm lớp 12. Học sinh tốt nghiệp trung học  có thể học tiếp các chương trình giáo dục đại học hoặc dạy nghề. GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT 

 Trường Phổ thông Chuyên và Năng khiếu 

 Từ năm 1966, hệ thống các trường THPT chuyên ra đời, bắt đầu là các lớp chuyên toán trong các trường đại học  khoa học cơ bản lớn, sau đó các trường chuyên được thành lập rộng rãi ở tất cả các tỉnh, thành phố. . Mục đích ban đầu của hệ thống trường chuyên biệt, như kỳ vọng của các nhà quản lý giáo dục, là  chú trọng phát triển năng khiếu của học sinh để bồi dưỡng  nhân tài. Để được vào học  trường chuyên, học sinh rời THCS phải có đủ điều kiện về học lực, hạnh kiểm của cấp II và đặc biệt  phải vượt qua  kỳ thi tuyển  vào  các trường này. Tuy nhiên, cho đến nay, trọng tâm của các trường chuyên  chủ yếu chỉ giới hạn ở kỳ thi tuyển sinh đại học.  

 Hệ thống trường phổ thông chuyên ở Việt Nam bao gồm hai hệ thống: trường chuyên trực thuộc  trường đại học (trước đây là trường chuyên quốc gia) và trường chuyên cấp  tỉnh. Hai hệ thống có một số khác biệt: 

 Phạm vi tuyển sinh: 

 Trường chuyên trực thuộc  trường đại học: giáo dục quốc dân. Trường chuyên thuộc tỉnh/TP: chỉ tuyển sinh học sinh của tỉnh/TP này (trừ  trường hợp đặc biệt) 

 Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia: 

 Trường chuyên trực thuộc  trường đại học: tham gia trực tiếp kỳ thi HSG quốc gia với tư cách tỉnh/thành phố 

 Trường chuyên tỉnh/TP: phải dự thi HSG cấp tỉnh/TP, thường  với các trường chuyên và THCS thường xuyên khác  trong tỉnh/TP. 

 Trong buổi đầu của hệ thống trường chuyên, khi các trường đại học chỉ  hình thành một số lớp chuyên, mục tiêu này đã bám sát và đạt được  khi  phần lớn  học sinh chuyên toán thời bấy giờ tiếp tục theo đuổi các chuyên ngành toán, lý. , Tin học (máy tính)… Đây là khâu mà hệ thống trường chuyên làm tốt nhất trách nhiệm của mình. Các sinh viên chuyên khoa giai đoạn này hiện đang đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các trường đại học, viện nghiên cứu lớn của Việt Nam, đồng thời là những cá nhân tiêu biểu nhất của nền khoa học nước nhà. . 

 Tuy nhiên,  với sự mở rộng của hệ thống trường học đặc biệt, trọng tâm ban đầu của hệ thống này đã dần phai nhạt. Kết quả của các trường chuyên trong kỳ thi học sinh giỏi các cấp và kỳ thi THPT quốc gia  thường rất cao. Tuy nhiên, nhiều người khẳng định nguyên nhân chính của những thành tích này không phải do chất lượng giảng dạy mà do phương pháp luyện thi. Tỷ lệ học sinh các trường chuyên biệt tiếp tục nghiên cứu khoa học hoặc các lĩnh vực liên quan ngày càng thấp khiến  giới khoa học Việt Nam lo lắng. 

 Trung tâm giáo dục thường xuyên 

 Trung tâm giáo dục thường xuyên là cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân  Việt Nam. Trung tâm giáo dục thường xuyên bao gồm trung tâm giáo dục thường xuyên cấp huyện, thành phố và cấp tỉnh. Vì vậy, hầu như các tỉnh đều có ít nhất 1 trung tâm giáo dục thường xuyên.  Trung tâm Giáo dục thường xuyên là nơi phổ cập giáo dục cho mọi lứa tuổi. 

 THPT Dân Tộc Nội Trú 

 Đây là những trường nội trú đặc biệt, có thể là cấp II hoặc cũng có thể là cấp III. Các trường này dành cho con em đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn  nhằm bồi dưỡng  nhân lực, tạo nguồn nhân lực cho các địa phương này. Học viên được ở lại trường và được hỗ trợ chi phí ăn, ở. 

 trường giáo dưỡng 

 Đây là một kiểu trường học đặc biệt dành cho những đứa trẻ vị thành niên phạm pháp. Tại trường, những học sinh này được học văn hóa, học nghề, giáo dục đạo đức để vài năm sau ra trường trở về địa phương. Trước đây, các trường  này được điều hành bởi Bộ Công an Việt Nam, nhưng bây giờ là Bộ Lao động, Thương binh và Phúc lợi. 

 GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP 

 Giáo dục hướng nghiệp hoặc hướng nghiệp là một nền giáo dục chuẩn bị cho mọi người làm việc như một kỹ thuật viên hoặc cho các công việc khác nhau như một thương nhân hoặc thợ thủ công. Giáo dục nghề nghiệp đôi khi được gọi là giáo dục nghề nghiệp và kỹ thuật. Trường dạy nghề là một loại hình cơ sở giáo dục được thiết kế dành riêng cho đào tạo nghề.  Giáo dục tiểu học (dạy nghề) 

 Cùng với đào tạo trình độ trung cấp,  cao đẳng, đào tạo trình độ sơ cấp nhằm giúp người học có được các kỹ năng cần thiết để thực hiện  các công việc đơn giản của  nghề. 

 giáo dục trung học 

 Các chương trình đào tạo trung cấp chấp nhận học sinh tốt nghiệp từ trung học cơ sở trở lên. 

 Chương trình đào tạo trình độ trung cấp với thời gian đào tạo tối thiểu tương đương 1 năm học tập trung đối với đối tượng đã  học hết cấp 3; 2 đến 3 năm học tập trung (tùy  ngành, nghề) đối với học sinh tốt nghiệp THCS. Người học sau khi tốt nghiệp trình độ trung cấp  được học tiếp lên trình độ cao đẳng, đại học nếu đáp ứng yêu cầu của chương trình đào tạo và đã học  đạt yêu cầu khối lượng kiến ​​thức văn hóa ở trường trung cấp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 

  Giáo dục cao đẳng 

 Chương trình đào tạo trình độ cao đẳng chấp nhận học sinh tốt nghiệp THPT hoặc tốt nghiệp trung  cấp.  Chương trình đào tạo cao đẳng có thời lượng học  tương đương từ 2 đến 3 năm học tập trung tùy theo ngành, nghề dành cho đối tượng đã học xong trung học phổ thông;  1 đến 2 năm học tập trung đối với người đã tốt nghiệp  trung cấp và có bằng tốt nghiệp THCS hoặc đã học và thi đạt yêu cầu về khối lượng kiến ​​thức văn hóa cấp THCS theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sinh viên tốt nghiệp  cao đẳng có thể học tiếp lên chương trình đào tạo đại học theo hướng chuyên nghiệp phù hợp, hoặc theo  hướng chuyên nghiệp khác nếu đáp ứng các điều kiện của chương trình đào tạo. 

 GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 

 Hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đang bị phân tán cho nhiều bộ phận quản lý. Mỗi bộ của chính phủ  có một số học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề. Bộ Giáo dục không trực tiếp quản lý toàn bộ hệ thống đại học mà chỉ đặt ra các quy định hướng dẫn hoạt động của các trường đại học. Các vấn đề về nhân sự và tài chính của  cơ sở giáo dục trực thuộc  bộ  do bộ  quản lý ngành quyết định. Ở các trường tư thục, vấn đề nhân sự và tài chính sẽ do các cổ đông của trường quyết định. 

 giáo dục dự bị đại học 

 Bằng tốt nghiệp  trung học hoặc tương đương là bắt buộc để  trở thành sinh viên dự bị đại học. 

 Học sinh dân tộc thiểu số không trúng tuyển  đại học có thể  học  dự bị đại học. Sau một năm học, các  sinh viên này có thể chọn bất kỳ trường đại học nào trong cả nước để  học (trừ trường Đại học Ngoại thương và các trường Quân đội). giáo dục đại học 

 Chương trình đào tạo trình độ đại học chấp nhận học sinh tốt nghiệp THPT; người đã tốt nghiệp trung  cấp  đã học và thi đạt yêu cầu về trình độ kiến ​​thức văn hóa THCS theo quy định của Sở Giáo dục và Đào tạo; những người đã tốt nghiệp đại học. 

 Chương trình đào tạo đại học  tương đương từ 3 đến 5 năm học tập trung dành cho đối tượng đã tốt nghiệp THPT hoặc đã tốt nghiệp trung  cấp  đã học và thi đạt có đủ khối lượng kiến ​​thức văn, hóa THPT theo quy định. quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Người tốt nghiệp trình độ đại học được tiếp tục học  thạc sĩ theo hướng chuyên môn phù hợp hoặc được tiếp nhận  học các hướng chuyên môn khác nếu đáp ứng yêu cầu của chương trình đào tạo. Sinh viên tốt nghiệp  đại học có  học bạ loại giỏi có thể được xét tuyển thẳng vào chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ đúng hướng  ở trình độ đại học. 

 ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 

 Cao học (Thạc sĩ) 

 Chương trình  thạc sĩ chấp nhận sinh viên tốt nghiệp  đại học.  Thời gian đào tạo trình độ thạc sĩ tương đương từ 1 đến 2 năm học tập trung tùy theo yêu cầu của ngành đào tạo. Người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo ở trình độ thạc sĩ có thể học tiếp lên tiến sĩ theo hướng chuyên môn phù hợp hoặc được tiếp nhận để học các hướng chuyên môn khác nếu đáp ứng  điều kiện của chương trình đào tạo. 

  Nghiên cứu sinh) 

 Chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ tiếp nhận người tốt nghiệp  thạc sĩ hoặc  tốt nghiệp  đại học nếu đáp ứng  yêu cầu của chương trình đào tạo. 

  Thời gian đào tạo  tiến sĩ tương đương từ 3 đến 4 năm học tập trung, tùy theo yêu cầu của ngành đào tạo và trình độ đầu vào của người học.  

 KHUNG TRÌNH ĐỘ QUỐC GIA VIỆT NAM 

 Khung trình độ quốc gia được ban hành theo quyết định 1982/QĐ-TTg. 

 Văn bản quy định 8 cấp học quốc gia: Sơ cấp I, Sơ cấp II, Sơ cấp III, Trung cấp, Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ. Chuẩn đầu ra và khối lượng học tập tối thiểu được quy định cụ thể cho từng trình độ đào tạo. Người học hoàn thành chương trình đào tạo đạt chuẩn đầu ra theo từng bậc học sẽ được cấp “chứng chỉ” cho 3 bậc học đầu tiên và cấp “bằng tốt nghiệp” cho bậc 4 là “bằng cấp cao cấp”. trình độ đại học”, “thạc sĩ”, “tiến sĩ” tương ứng cho 4 bậc cuối. Đơn vị khối lượng học tập được tính theo tín chỉ.  

 Văn bản không nêu rõ định nghĩa về đơn vị tín chỉ mà cho rằng “tín chỉ” được định nghĩa như trong “Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo khuôn khổ học chế tín chỉ” tại quyết định số 43/2007/QĐ- BGDĐT ngày 15/8/2007  “Một tín chỉ tương đương 15 tiết  lý thuyết; 30 đến 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 đến 90 giờ thực tập tại trường; 45 đến 60 giờ viết tiểu luận, công trình hoặc đồ án lớn, luận văn tốt nghiệp” và “Đối với các môn học  lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để đạt tín chỉ, sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân. Định nghĩa về tín dụng này tương tự như giới hạn tín dụng 15 tuần nửa năm ở Hoa Kỳ. Theo tiêu chuẩn này, 1 năm học tương đương 30 tín chỉ nên khối lượng học  đại học  quy định là 120 tín chỉ  tương đương  4 năm học.  

 Theo một số chuyên gia  giáo dục,  cấu trúc hệ thống mới cần phản ánh yêu cầu “liên thông” giữa hai luồng giáo dục hàn lâm và giáo dục nghề nghiệp, chẳng hạn tầng 5 nên là “THPT” và “THPT”. không phải là “trung cấp”, bởi chương trình “trung cấp” chỉ quan tâm đến trình độ tay nghề chứ không quan tâm đến trình độ học vấn nên người học tốt nghiệp trình độ này không đủ điều kiện học  lên  cao đẳng, đại học. Ngoài ra, con đường giáo dục nghề nghiệp sẽ tốt hơn nếu được thiết kế lên  bậc cao hơn (tiến sĩ), vì  ở bậc này có thể tổ chức cấp văn bằng  hướng tới thực hành cao nhất (như văn bằng 2 chuyên khoa  đào tạo y khoa).

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo