1. Tội đe dọa người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự
Hành vi đe dọa của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các yếu tố cấu thành cụ thể của bộ luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành (Bộ luật cá nhân 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).
Cụ thể, Đạo luật Hình sự Đe dọa Người khác quy định rằng các trường hợp đe dọa người khác sẽ cấu thành tội phạm và bị truy tố hình sự, chẳng hạn như:

Hành vi đe doạ xâm phạm tính mạng người khác
2. Tội đe dọa tính mạng người khác
Người có hành vi đe dọa tính mạng người khác có thể phạm tội đe dọa chết theo quy định tại Điều 133 BLHS. làm cho người bị đe dọa lo sợ việc đe dọa sẽ được thực hiện. Sự đe dọa tính mạng này có thể được thể hiện bằng lời nói, cử chỉ hoặc thái độ tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà người bị đe dọa nhận thức được và có đủ lý do để tin rằng sự đe dọa này có thể xảy ra (ví dụ: cá nhân đe dọa nhà báo để vạch mặt tội phạm của họ). hành vi). Về hình phạt, người phạm tội đe dọa tính mạng người khác sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trong trường hợp có đủ các tình tiết thuộc phần tăng nặng của bản án (như phạm tội đối với 2 người trở lên, lợi dụng chức vụ, quyền hạn…) thì người thực hiện hành vi đe dọa tính mạng của người khác có thể bị bị phạt tù từ 02 năm đến 02 năm từ 05 năm đến 07 năm.
3. Tội đe dọa tinh thần người khác
Ngoài ra, người thực hiện hành vi đe dọa còn có thể phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 168 BLHS), theo đó, khi người đó đe dọa sẽ dùng vũ lực tấn công ngay (uy hiếp tinh thần người khác) đối với nhằm chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. Trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng như phạm tội có tổ chức, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp... thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Đồng thời, đe dọa tinh thần người khác cũng có là hành vi của tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 BLHS (đe dọa tinh thần người khác bằng cách sẽ dùng vũ lực để uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản). Hoặc trong trường hợp người thực hiện hành vi đe dọa dùng vũ lực giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác cũng có thể phạm tội hiếp dâm (đe dọa tinh thần người khác thực hiện hành vi giao cấu, quan hệ tình dục khác với họ) và khi đó bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm, trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng như phạm tội có tổ chức, có tính chất loạn luân… thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm…
Như vậy, tùy thuộc vào hành vi đe dọa, mục đích đe dọa và thậm chí là hậu quả của việc đe dọa thì hành vi đe dọa người khác có thể cấu thành tội phạm khác nhau và chịu khung hình phạt, mức hình phạt khác nhau. Trong trường hợp không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, các hành vi đe dọa người khác có thể bị xử phạt hành chính theo điểm g, Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến, đặc biệt là những người có hành vi cung cấp, trao đổi, truyền, lưu trữ hoặc sử dụng thông tin kỹ thuật số nhằm mục đích đe dọa uy tín, danh tiếng của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của người khác sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng hoặc theo luật và nghị định khác có liên quan tùy theo hành vi đe dọa người khác.
Nội dung bài viết:
Bình luận