Hạn thức bóc lột sức lao động

Để làm sáng tỏ câu hỏi trên, cần nhìn lại lịch sử hình thành và biến đổi của quan hệ bóc lột và xác định những quan điểm lịch sử cụ thể về vấn đề bóc lột. 

 Sự ra đời, biến đổi và tiêu vong của quan hệ bóc lột 

 

 Sự ra đời và biến đổi của quan hệ bóc lột 

 

 Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trên cơ sở sở hữu công cộng và lao động tập thể, trong điều kiện năng suất lao động cực thấp, không có sản phẩm thặng dư, người ta buộc phải thực hiện  phân phối bình quân đối với sản phẩm lao động, vì nếu phân phối nhiều thì người nhận  ít không thể sống được,  dẫn đến chính công xã cũng bị diệt vong. Vì vậy, trong công xã nguyên thủy, không có báo cáo khai thác. 

 Cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển, biểu hiện ở sự phát triển của phân công xã hội thay cho phân chia tự nhiên và của công cụ lao động bằng kim loại (đồng, sắt) thay cho công cụ thô sơ. Năng suất lao động tăng  hơn trước và sức lao động có khả năng sản xuất ra nhiều tư liệu sinh hoạt hơn mức cần thiết cho quá trình tái sản xuất sức lao động, tức là  sản phẩm thặng dư phát sinh. Sự phân công lao động tự phát  trong gia đình  nông dân cho phép họ sử dụng  một hoặc nhiều  lao động bên ngoài, nhưng bản thân công xã  không có  lao động  tự do và sẵn có. Tuy nhiên, chiến tranh đã cung cấp nguồn nhân lực này. Trong quá khứ, người ta không biết sử dụng tù nhân để làm gì và cho họ ăn gì, vì vậy họ chỉ  giết họ. Bây giờ người ta để  họ sống và sử dụng sức lao động của họ, biến họ thành nô lệ và chế độ nô lệ đã phát sinh. 

 Ph.Ăngghen nhận xét: “Từ cuộc đại phân chia xã hội  đầu tiên đã ra đời cuộc đại phân chia xã hội đầu tiên thành hai giai cấp: chủ  và nô lệ, kẻ bóc lột và kẻ bị bóc lột”(1).  Chủ nô chiếm đoạt cả tư liệu sản xuất (TLSX) và nô lệ,  nô lệ trở thành  “công cụ biết nói”. Nô lệ chịu sự kiểm soát hoàn toàn của chủ sở hữu của họ. Chủ nô bắt nô lệ làm việc cực nhọc, chỉ cung cấp cho nô lệ một ít tư liệu sinh hoạt, chiếm đoạt phần sản phẩm còn lại,  không chỉ bao gồm sản phẩm  dư thừa mà còn cả một phần sản phẩm cần thiết của nô lệ. Lao động nô lệ hoàn toàn  bị cưỡng bức nên  nô lệ không những không có hứng thú làm việc mà còn tìm cách phá hoại sản xuất. Các cuộc nổi dậy của nô lệ nổ ra  khắp nơi, tuy  thất bại nhưng đã làm lung lay tận gốc chế độ  nô lệ. Tình hình trên  làm cho các chủ nô hiện đại nhận ra rằng nếu trả tự do cho nô lệ rồi chia ruộng đất  thành từng mảnh nhỏ giao cho nô lệ  tự do canh tác và thực hiện một số nghĩa vụ  đối với chủ đất thì họ sẽ quan tâm hơn đến sản xuất và làm lợi cho chủ đất. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ nông nô - tiền thân của chế độ nông nô thời trung cổ, thời kỳ quá độ lên chế độ phong kiến.  

 Trong chế độ phong kiến,  hình thức bóc lột điển hình lúc đầu là làm việc trên ruộng đất, trong đó một phần của tuần  người sản xuất trực tiếp canh tác trên ruộng đất do chủ giao cho bằng các công cụ lao động (cày, trâu bò, v.v.) thuộc về anh ta một cách thực sự hoặc hợp pháp, còn những ngày khác trong tuần anh ta làm việc không công trên ruộng của  chủ. Như vậy, lao động cần thiết để nuôi sống bản thân  nông nô và gia đình họ tách biệt với lao động thặng dư do địa chủ sử dụng, cả về không gian và thời gian. 

  Sản xuất đã phát triển lên một trình độ cao hơn, địa tô đã chuyển hóa thành địa tô hiện vật. Giờ đây, chủ đất không còn chấp nhận  phần lao động thặng dư dưới hình thức tự nhiên của nó nữa, mà dưới hình thức tự nhiên của của cải sản phẩm, trong đó lao động thặng dư được sử dụng. 

 Khi sản xuất hàng hoá phát triển thì địa tô hiện vật  chuyển thành  địa tô tiền tệ. Người sản xuất trả giá sản phẩm trực tiếp  cho chủ sở hữu  đất đai (dù  là công cộng hay tư nhân), chứ không phải bản thân sản phẩm.  

 Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá trong xã hội phong kiến,  tá điền tư bản chủ nghĩa (tư bản) cũng xuất hiện, nhiều nông nô trước đây cũng chuộc lại nghĩa vụ địa tô  và trở thành nông dân độc lập, có toàn quyền sở hữu  ruộng đất  canh tác, đồng thời  một tầng lớp người không có tài sản, làm thuê để kiếm tiền, thủ công nghiệp cũng phát triển. 

 Ưu điểm của sản xuất hàng hóa nhỏ là  người trực tiếp sản xuất có thể chủ động kết hợp  lao động với những phương tiện sản xuất do mình làm chủ để chuyên môn hóa sản xuất một hoặc một số sản phẩm trong những điều kiện thuận lợi, có thể cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng suất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới  độc lập. Tuy sản xuất hàng hóa nhỏ, vận động theo công thức H-T-H, chủ yếu vẫn hướng vào giá trị sử dụng, nhưng trong những hoàn cảnh thuận lợi, những người lao động trực tiếp vẫn có thể tạo ra giá trị thặng dư (GTTD), thậm chí GTTD siêu ngạch và họ chiếm đoạt toàn bộ GTTD đó, không bị ai bóc lột.  

 Nhưng đến một trình độ nhất định, sản xuất hàng hóa nhỏ bộc lộ những nhược điểm và kìm hãm LLSX, như quy mô sở hữu nhỏ về TLSX đã loại trừ mọi việc ứng dụng những phương pháp cải tiến hiện đại, loại bỏ sự tích tụ TLSX, do đó cũng loại bỏ sự hợp tác lao động. Sự cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hóa nhỏ dẫn đến phân hóa hai cực: một mặt, những người gặp thuận lợi sẽ ngày càng mạnh lên, những người gặp khó khăn sẽ ngày càng suy yếu, dẫn đến kết quả là một số ít người giàu lên thành những nhà tư bản, đa số người bị phá sản, chỉ còn làm chủ sở hữu sức lao động, buộc phải bán sức lao động để kiếm sống, trở thành công nhân làm thuê; mặt khác, do lao động cá thể, phân tán, kỹ thuật lạc hậu, vốn hạn hẹp, phải vay nặng lãi, nên sức cạnh tranh yếu, những doanh nghiệp nhỏ đã bị đại công nghiệp và đại nông nghiệp đè bẹp. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản chỉ rõ: Sự phát triển của công nghiệp đã xóa bỏ và hằng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ sở hữu của người tiểu tư sản và của tiểu nông. Trong xã hội TBCN, chế độ tư hữu đã bị xóa bỏ đối với 9/10 số thành viên xã hội. Hơn nữa, các biện pháp bạo lực của cái gọi là tích lũy nguyên thủy, một mặt, đã tách những người lao động  sở hữu ra khỏi điều kiện làm việc của họ, biến họ thành những người làm công ăn lương; mặt khác, biến tư bản xã hội và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản. 

 Phân tích xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản, C. Mác đã rút ra kết luận về số phận của phương thức sản xuất (PTSX) dựa trên  sở hữu tư nhân nhỏ: “Trong một chừng mực nhất định, phương thức sản xuất này sản xuất ra  vật chất là tự huỷ diệt mình... Phương thức sản xuất này phải bị xoá bỏ, và nó đã bị xoá bỏ. Việc thủ tiêu phương thức sản xuất này, việc biến những tư liệu sản xuất riêng lẻ, phân tán thành những tư liệu sản xuất tập hợp có tính chất xã hội, tức là biến sở hữu nhỏ  của đa số  thành sở hữu  lớn của một số ít... đó  là tiền sử của tư bản”(2). 

 Hệ thống sở hữu tư nhân do lao động của bản thân những người công nhân có được đã được thay thế bằng hệ thống sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa dựa trên sự chiếm đoạt lao động thặng dư của những người làm công ăn lương mà không phải trả giá trị tương đương, tức là sự bóc lột giá trị của tín dụng. 

 Nói về sự khát khao vô hạn của các ông chủ công xưởng, lãnh chúa về lao động thặng dư, C. Mác  viết: Tư bản không  phát minh ra lao động thặng dư. Khi một bộ phận của xã hội nắm độc quyền về  tư liệu sản xuất, thì  người công nhân, dù tự do hay không, buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để sinh sống của mình một phần thời gian lao động tăng thêm được sử dụng để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho người sở hữu tư liệu sản xuất, bất kể người sở hữu này là  quý tộc, chủ nô, lãnh chúa hay địa chủ. Từ những điều trên có thể hiểu bóc lột là hành vi của chủ CL nhằm chiếm đoạt phần lao động thặng dư (và đôi khi là một bộ phận lao động cần thiết) của người trực tiếp sản xuất. Phương thức bóc lột có tính chất đặc thù  theo từng hình thái kinh tế - xã hội và chủ yếu do phương thức kết hợp  lao động với tư bản xã hội quyết định. Chính các hình thức dồn nén lao động thặng dư trở thành tiêu chí để phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội. 

  Lịch sử  ra đời và biến đổi của các hình thức bóc lột trên phù hợp với trình tự phát triển  của xã hội loài người nói chung, nhưng ở mỗi nước có thể  có những bước phát triển đặc thù do điều kiện riêng. Chẳng hạn, theo các tài liệu lịch sử, Việt Nam không trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ mà từ chế độ công xã nguyên thủy sang chế độ phong kiến.  Dự đoán sự kết thúc của các mối quan hệ bóc lột 

 

  1. Mác đã dự đoán: Với sự phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và khối lượng lao động tiêu hao, mà phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và  tiến bộ kỹ thuật, hay  việc ứng dụng khoa học này vào sản xuất. Lao động không biểu hiện  chủ yếu với tư cách là đầu vào của lao động  vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một loại hình lao động trong đó con người là người kiểm soát và điều chỉnh chính quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ  thay thế dần phần lớn sức lao động trực tiếp. Do đó, thay vì là tác nhân chính của quá trình sản xuất, người công nhân lại sát cánh cùng nó. Khi đó, tri thức trở thành sản xuất trực tiếp, sáng chế trở thành một nghề riêng biệt và đối với nghề này, việc ứng dụng khoa học vào bản thân sản xuất trực tiếp  trở thành một trong những yếu tố  quyết định và kích thích. Quy trình sản xuất đã chuyển từ quy trình lao động giản đơn sang quy trình khoa học. Lao động trực tiếp về số lượng sẽ giảm ít hơn và về chất lượng sẽ trở thành  yếu tố cần thiết nhưng  thứ yếu của lao động khoa học phổ thông và ứng dụng khoa học tự nhiên vào kỹ thuật. 

 Một khi lao động ở dạng trực tiếp không còn là nguồn  của cải, sản xuất hàng hóa sụp đổ và việc rút ngắn thời gian lao động cần thiết để tăng thời gian lao động thặng dư sẽ được thay thế bằng việc tăng thời gian nhàn rỗi cho toàn xã hội  và cho từng thành viên của xã hội, tức là tạo ra dư địa cho sự phát triển  đầy đủ  của toàn xã hội. 

  Trong những điều kiện đó, quần chúng lao động phải sở hữu  lao động thặng dư của họ. Khi người lao động bắt đầu làm như vậy, thì  một mặt, thước đo cần thiết về thời gian làm việc sẽ được cấu thành bởi các nhu cầu xã hội của cá nhân; mặt khác, sự phát triển của sức sản xuất xã hội sẽ  nhanh  đến mức, mặc dù sản xuất hướng tới sự giàu có của tất cả mọi người, nhưng thời gian rảnh rỗi của mỗi người sẽ tăng lên. Vì vậy, của cải thực sự là sức sản xuất của sự phát triển của mọi cá nhân. Khi đó, thước đo của cải chắc chắn sẽ không còn là thời gian lao động, mà là thời gian nhàn rỗi (4). 

 Dự báo khoa học  trên có nhiều điểm rất phù hợp với sự phát triển của kinh tế tri thức hiện nay, đồng thời đã chỉ ra điều kiện làm cho quan hệ vận hành bị diệt vong, đó là sự phát triển rất cao của LLSX, khi  kinh tế tri thức  đạt đến đỉnh cao. Vì vậy, phải nắm vững nguyên tắc: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong cho đến khi tất cả các lực lượng sản xuất mà nó tạo thành một địa điểm phát triển thích hợp chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới ưu việt hơn chưa hề xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của chúng chưa hoàn thiện trong chính xã hội cũ. Do đó, nhân loại luôn chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết, bởi vì khi xem xét kỹ hơn,  người ta luôn thấy rằng bản thân nhiệm vụ đó chỉ xuất hiện khi các điều kiện vật chất cho giải pháp của nó đã tồn tại hoặc ít nhất là đang  trong quá trình hình thành. 

 Như vậy, không thể  vội vàng xóa bỏ bóc lột khi quan hệ bóc lột chưa đòi hỏi nó, khi quan hệ bóc lột chưa trở thành lực cản cho sự phát triển của sản xuất công nghiệp, khi chưa xuất hiện các điều kiện để thủ tiêu  quan hệ bóc lột. 

 Xác định các quan điểm lịch sử cụ thể khi nói đến các mối quan hệ điều hành 

 

 Những điều  trên cho thấy sự thay đổi của các hình thức bóc lột gắn liền với sự phát triển của LLS. Vì vậy, khi giải quyết một quan hệ bóc lột không nên căn cứ vào tình cảm để xác định quan hệ đó tốt hay xấu mà cần xem xét vai trò lịch sử của nó đối với sự phát triển của sản xuất công nghiệp trong từng hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, chế độ chiếm hữu nô lệ tuy tàn bạo và  từng bị lên án nhưng so với  công xã nguyên thủy thì đó là một bước tiến của lịch sử xã hội loài người, cho dù trong công xã nguyên thủy không có quan hệ bóc lột. Vì vậy, Ph.Ăng-ghen nhận xét: “Muốn sử dụng nô lệ thì phải có hai điều: thứ nhất, phải có  công cụ và đồ vật lao động cho  nô lệ, thứ hai, phải có  tư liệu để nuôi sống  nô lệ  một cách nghèo nàn. Vì vậy, trước khi chế độ nô lệ có thể nhìn thấy ánh sáng ban ngày, phải đạt đến một mức độ sản xuất nhất định…”. “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; Không có chế độ nô lệ, sẽ không có Đế chế La Mã. Nếu không có  nền văn minh Hy Lạp và Đế chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của tất cả sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ của chúng ta là một trạng thái trong đó chế độ nô lệ là hoàn toàn cần thiết vì nó được công nhận rộng rãi. Theo  nghĩa này, chúng ta có quyền nói: không có chế độ nô lệ cổ đại thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại”(6). 

 Hay, sản xuất tự do mậu dịch là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tư bản ra đời “ngậm máu và bùn  trong từng lỗ chân lông”, nhưng nó  tiến bộ hơn nền sản xuất nhỏ phân tán của những người nông dân và nghệ nhân độc lập, cá thể, mặc dù sản xuất hàng hóa nhỏ không liên quan gì đến bóc lột. Vì vậy, C.Mác đã chỉ rõ: “Chúng ta đau khổ không chỉ vì  phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn  vì nó không phát triển  đầy đủ. Bên cạnh những tai họa của thời đại ngày nay, chúng ta còn phải chịu đựng  một loạt những tai họa kế thừa, trong đó các phương thức sản xuất cũ, lạc hậu vẫn tiếp tục tồn tại cùng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa mà chúng tạo ra” (7). Ph.Ăng-ghen cũng nhận xét: “Vừa khăng khăng gay gắt về mặt xấu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì C.Mác cũng chỉ rõ rằng, hình thức xã hội này là cần thiết cho sự phát triển cao độ của lực lượng sản xuất của xã hội để mọi thành viên trong xã hội đều có thể phát triển  một cách bình đẳng xứng đáng với con người. Tất cả các hình thức xã hội trước đây đều quá nghèo cho điều đó. Chỉ có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mới tạo ra  của cải và  lực lượng sản xuất mà nó cần; nhưng đồng thời với một số lượng lớn những người lao động bị áp bức, nó cũng tạo ra một giai cấp xã hội ngày càng  phải đối mặt với nhu cầu nắm quyền kiểm soát những hàng hóa và  lực lượng sản xuất này để sử dụng chung cho toàn  xã hội chứ không phải cho riêng một giai cấp nào như hiện nay. 

 Về phía  người bị bóc lột, chúng ta sẽ thấy  hình thức bóc lột sau đỡ khắc nghiệt hơn  hình thức bóc lột trước. Nô lệ bị bán  cho chủ nô và chỉ nhận được  tư liệu sinh hoạt cố định và lâu dài, trong khi toàn bộ sản phẩm thặng dư và một phần sản phẩm cần thiết đều bị chủ nô chiếm đoạt. Nông nô chỉ phải  cống nạp cho địa chủ dưới hình thức địa tô công lao động, địa tô hiện vật và cuối cùng là địa tô bằng tiền. Trong địa tô lao động, lao động mà người sản xuất làm trực tiếp  cho chính họ (lao động cần thiết) được tách biệt về không gian và thời gian với lao động thặng dư mà họ làm cho chủ sở hữu. Tuy vẫn là quan hệ bóc lột, nô dịch và thống trị nhưng so với  nô lệ, sự lệ thuộc đã giảm  dần cho đến khi không còn là  nghĩa vụ cống nạp nữa. Trong tiền thuê lao động, những người sản xuất được tự do trực tiếp làm việc trên mảnh đất mà họ sở hữu để họ làm việc tích cực  và  có thể cải thiện tình hình của mình,  trở nên khá giả và tạo ra một số thặng dư vượt quá mức sinh hoạt cần thiết của họ, tức là họ có thể  tăng thêm của cải một cách độc lập, hoặc tăng thêm của cải. 

 Khi địa tô  chuyển thành tiền thuê sản phẩm,  người sản xuất trực tiếp, người nắm giữ các điều kiện lao động cần thiết, phải cung cấp cho người sở hữu những điều kiện lao động này, tức là chủ đất, các sản phẩm thặng dư, bất kể  là tư nhân hay công cộng. Địa tô sản phẩm khác với địa tô lao động ở chỗ lao động  dư thừa không bắt buộc phải được thực hiện dưới hình thức tự nhiên của nó,  cũng như không chịu sự giám sát và  cưỡng bức trực tiếp của  chủ sở hữu hoặc đại lý của chủ sở hữu. Mặt khác, người sản xuất trực tiếp thực hiện lao động thặng dư do pháp luật quy định, trên thửa ruộng thực sự thuộc về mình, do mình canh tác chứ không còn trên ruộng của lãnh chúa như trước nữa. Người sản xuất trực tiếp có thể  sử dụng ít nhiều toàn bộ thời gian lao động của mình, mặc dù một phần thời gian này vẫn phải làm việc mà không được trả công cho chủ sở hữu, nhưng điểm khác biệt là bây giờ  chủ sở hữu không nhận  phần lao động thặng dư này ở dạng tự nhiên  mà ở dạng sản phẩm do lao động thặng dư tạo ra. Công việc mà người sản xuất làm trực tiếp  cho mình và công việc mà anh ta cung cấp cho  chủ sở hữu không còn tách biệt  về không gian và thời gian. Hơn nữa, người sản xuất trực tiếp  có thể kết hợp công việc gia đình với nông nghiệp. Tiền thuê sản phẩm có thể không làm cạn kiệt lao động thặng dư, có thể cung cấp cho người sản xuất trực tiếp nhiều hoạt động  hơn, thậm chí có thể cho phép người sản xuất trực tiếp có được  phương tiện để đến lượt mình, anh ta  trực tiếp bóc lột sức lao động của những người khác. Nhưng địa tô hàng hóa cũng có thể trực tiếp đẩy người sản xuất  vào cảnh nợ nần, nhất là khi thiên tai, sâu bệnh khiến mùa màng thất bát đến mức họ không thể tái sản xuất,  không thể tăng sản lượng và phải dựa vào một số  sinh kế cơ bản để tồn tại qua ngày.



Báo động thực trạng 58,5 triệu trẻ em châu Phi chậm phát triển |  baotintuc.vn

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo