Hạn tả chính sách tài khóa

Nhiều chính sách tài khóa được thực thi, giúp doanh nghiệp, người dân hưởng  lợi - Tạp chí Tài chính

Đại dịch Covid-19 và bối cảnh toàn cầu có nhiều diễn biến bất lợi đã tác động đến nền kinh tế Việt Nam. Với mục tiêu phục hồi và phát triển kinh tế,  chính sách tiền tệ và tài khóa đã có nhiều thay đổi trong năm 2022. Nhìn lại những chính sách này, ông nghĩ sao? 

 Chúng ta đều thấy rõ, ngoài tác động của đại dịch Covid-19, mâu thuẫn giữa Nga và Ukraine là sự thay đổi nhanh chóng trong chính sách tài khóa, tiền tệ của Mỹ và các nước châu Âu đã gây chấn động thế giới, dù các nước khác cũng đang đi theo hướng tương tự. Trong tháng 12/2022, theo thống kê của AfDB, tất cả các quốc gia ở châu Á đã tăng lãi suất tổng cộng gần 70 lần, trong khi năm 2021 chỉ  20 lần. Tốc độ tăng lãi suất cũng rất cao, ở mức 0,6 - 0,7%/năm, thể hiện rõ xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ. Trong khi đó, chính sách tài khóa hay giải ngân đầu tư công,  chính sách tài khóa hỗ trợ của các quốc gia nhìn chung vẫn  ở mức linh hoạt. 

  Việt Nam cũng đi theo xu hướng này của các nước trên thế giới. Rủi ro lạm phát ở nhiều nước là rất lớn, tuy nhiên,  rủi ro lạm phát đặc thù của Việt Nam không phải do cầu mà là do  chi phí đẩy, hay  đơn giản là Việt Nam nhập  lạm phát, nhất là qua tỷ giá. Do đó, điều hành chính sách của NHNN đã có sự chuyển hướng, giống với xu hướng của các nước trên thế giới, đó là thắt chặt tiền tệ. Điểm đáng chú ý của Việt Nam, ngoài việc thay đổi chính sách tiền tệ phù hợp với xu thế, là không gây ra cú sốc lớn cho nền kinh tế và nền kinh tế vẫn có thể hấp thụ được. Có ý kiến ​​cho rằng cuối năm 2022, NHNN sẽ gây sốc khi tăng mạnh lãi suất 2 lần, nhưng thực tế cho thấy nền kinh tế có thể hấp thụ được, kể cả  thị trường trái phiếu doanh nghiệp không có vấn đề. 

 Thật vậy, thị trường trái phiếu đã ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Sự bất ổn  của thị trường trái phiếu cùng với sự thay đổi của chính sách tiền tệ đã  tác động mạnh đến tính thanh khoản của nền kinh tế. Nếu không có vấn đề  trái phiếu doanh nghiệp thì lập trường chính sách tiền tệ là phù hợp, đúng hướng và không còn cách nào khác.  Vẫn còn khoảng trống trong chính trị ảnh 1 

 Tăng trưởng tín dụng năm 2022 là 14,7%, định hướng đến năm 2023 tăng khoảng 14-15% 

 

 Trong bối cảnh thanh khoản của nền kinh tế biến động mạnh, lãi suất liên ngân hàng tăng cao và dư địa điều động tiền tệ hạn chế thực sự được quan sát từ đầu năm 2022, câu hỏi đặt ra là chính sách tài khóa đã làm gì với trách nhiệm đầy đủ? Diễn biến thực tế cho thấy,  khi chính sách tiền tệ  chuyển sang xu hướng thắt chặt thì thị trường trái phiếu càng tác động làm giảm tính thanh khoản của thị trường, giải ngân vốn đầu tư công và chính sách sẽ giảm. Việc đánh thuế dường như chưa thực sự hỗ trợ nền kinh tế, chưa thực sự bù đắp cho sự thiếu hụt thanh khoản của nền kinh tế. 

  Chính sách tài khóa lẽ ra phải được tăng cường hơn nữa, đặc biệt trong bối cảnh thị trường vốn vốn đã thắt chặt. Giảm thuế, tăng  chi tiêu công, tăng  giải ngân đầu tư công... sẽ tác động tích cực  nhiều hướng và tăng tính thanh khoản của nền kinh tế. Nhưng rõ ràng là chi tiêu công hay các biện pháp hỗ trợ của chính phủ diễn ra chậm chạp và không rõ ràng. Có lẽ những vấn đề của năm 2023  đã lộ rõ ​​từ năm 2022, thưa ông?  

 Năm 2023, vai trò của chính sách tài khóa càng phải được coi trọng, cụ thể là giải ngân đầu tư công, chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế. 

  Đúng là các yếu tố bên ngoài như suy thoái, rủi ro lạm phát, địa chính trị... luôn hiện hữu, dẫn đến nhiều ý kiến ​​cho rằng kinh tế toàn cầu sẽ tiếp tục ảm đạm trong năm 2023, nhưng tôi cho rằng bối cảnh và cơ hội của năm 2023 tốt hơn  2022. 

  Có nhiều ý kiến ​​về “gió ngược chiều”, nhưng theo tôi, “gió ngược chiều” sẽ không hiếm và sẽ là điểm sáng cho kinh tế toàn cầu năm 2023, trong đó có Việt Nam. 

 Đầu tiên, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu giảm cường độ tăng lãi suất, giúp hạ nhiệt tỷ giá hối đoái Việt Nam. Tỷ giá giảm sẽ mở ra cơ hội cho chính sách tiền tệ của Việt Nam. 

  Thứ hai, Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai  thế giới đã mở cửa biên giới sau thời gian dài phong tỏa do dịch Covid-19, tạo cơ hội cho nhiều vùng của Việt Nam, dù có thể gây áp lực lên thị trường năng lượng. 

  Thứ ba, Hoa Kỳ vẫn đang suy thoái nhưng sẽ chậm lại, không nghiêm trọng, mạnh nên cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn. 

 Thứ tư, các nước trong khu vực ASEAN  duy trì đà tăng trưởng tốt, đồng thời là thị trường xuất khẩu quan trọng, đứng thứ 4 của Việt Nam sau Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc. Các nước này cũng như Việt Nam kiểm soát được lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế vĩ mô ổn định nên cơ hội xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn.  Những cơn gió ngược đã và sẽ tiếp tục xuất hiện vào năm 2023.  

 Một thực tế khác cũng rất rõ ràng là thách thức  của Việt Nam năm 2023 bắt đầu từ năm 2022, nhưng đến từ bên trong. 

 Đầu tiên là câu chuyện thị trường vốn, Việt Nam chưa có giải pháp thực sự rõ ràng để vực dậy thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Trong khi đó, đang có sự nhầm lẫn  giữa giải cứu bất động sản và duy trì tính thanh khoản,  ổn định trên thị trường tài chính. Khi nói đến  xử lý các vấn đề về thị trường vốn, hầu hết mọi người chỉ nghĩ đến việc cứu thị trường bất động sản.  Đúng là đầu tư bất động sản trước đây chiếm một phần rất quan trọng trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua phát hành riêng lẻ, nhưng điều này không có nghĩa là quy định thanh khoản của nền kinh tế ngang bằng với quy định thanh khoản của thị trường thực. nghiên cứu thị trường bất động sản. Điều này  bộc lộ rõ ​​sự yếu kém về cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam, vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường tiền tệ.



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo