Hạn sách tài khoá quan trọng

Diễn đàn Chính sách tài khóa và Phát triển Việt Nam là sự kiện thường niên do Liên minh Công bằng Thuế Việt Nam (VATJ) tổ chức. 

 Tại diễn đàn năm nay, các nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách, doanh nghiệp và giới truyền thông đã tập trung thảo luận  các vấn đề về chính sách thuế, như:  công bằng thuế; thu, chi ngân sách nhà nước năm 2020; tác động của nợ công đối với phát triển kinh tế tư nhân và chính sách miễn, giảm thuế giá trị gia tăng tại các nước ASEAN... 

 

 Chỉ số Công bằng Thuế (FTM)  được thử nghiệm tại 4 quốc gia trong năm 2016 và tại 9 quốc gia (trong đó có Việt Nam) kể từ năm 2017, với các nhóm tiêu chí đánh giá sau: (1) Hệ thống thuế lũy tiến (2) Doanh thu phù hợp (3) Ưu đãi thuế cho doanh nghiệp  quản trị tốt (4) Quản lý thuế hiệu quả (5) Chi tiêu công vì người nghèo (6) Trách nhiệm giải trình trong tài chính công 

 

 Theo số liệu tổng hợp  từ Bộ Tài chính, thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu, thường chiếm từ hơn 70% đến hơn 80%  tổng thu ngân sách nhà nước. Tổng thu thuế tính theo phần trăm GDP đã giảm dần từ  24% (2006-2008) xuống  18% (2014-2019). Tỷ trọng thuế gián thu  tăng mạnh và ngược lại tỷ trọng thuế trực thu  giảm nhanh.  

 Tốc độ tăng  tổng  thu từ thuế cũng  có xu hướng giảm và ổn định ở mức bình quân 7,36%/năm trong giai đoạn 2012-2019. Tỷ lệ thuế trên GDP của Việt Nam thấp hơn so với các nước OECD, nhưng đã tương đương với các nước có thu nhập trung bình thấp kể từ năm 2014.  

 Tuy nhiên, trong cả giai đoạn 2006-2019, tỷ lệ thuế trên GDP của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước  ASEAN 5. Từ năm 2012, thu ngân sách ngoài thuế  có xu hướng tăng dần về tỷ trọng trong tổng thu ngân sách và tỷ trọng trên GDP. Bình quân giai đoạn 2006-2019, thu ngân sách ngoài thuế chiếm  5,3% GDP. 

  Trong thời gian này, tỷ lệ thuế trên GDP đã giảm từ  khoảng 22,2% GDP (2006) xuống  17,9% GDP (2019). Phí, lệ phí và các nguồn thu thông thường  khác ngoài thuế  chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu ngoài thuế. Tỷ trọng nguồn thu  phí và tiền bản quyền có xu hướng giảm dần theo thời gian. Tỷ trọng và số thu  từ bất động sản ngoài thuế tăng  mạnh kể từ năm 2014. Năm 2019, tổng  thu này chiếm 12,2% tổng thu NSNN và tương đương 17,4% tổng thu thuế. Trong số các khoản thu này, thuế sử dụng đất chiếm tỷ trọng lớn nhất.  Năm 2018, số  tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế là hơn 57 triệu người, tăng 10,2% so với năm 2017. Tính đến 31/12/2018, cả nước có 714.800 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 9,2%. so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó có 610.600 doanh nghiệp có doanh thu (chiếm 85,4%).  

 Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi năm 2018 là 44,1%, tương ứng với 269.300 doanh nghiệp. Mặc dù số lượng công ty và số công ty có doanh thu đều tăng nhưng tỷ lệ công ty có lãi  liên tục giảm trong giai đoạn 2016-2018. Nợ thuế cũng  rất phổ biến. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2019 của Kiểm toán Nhà nước cho biết, tính đến ngày 31/12/2018, tổng số  nợ thuế ngành thuế quản lý là 86,68 nghìn tỷ đồng, bằng 8% tổng thu NSNN năm 2018. nợ thuế do ngành hải quan quản lý là 6,72 nghìn tỷ đồng, bằng 2,14% số thu của ngành hải quan năm 2017. 

  Số lượng nhân viên  thuế tăng từ 45.000 (2016) lên 40.000 (2019). Cuối tháng 2/2020, toàn hệ thống thuế đã hoàn thành việc hợp nhất các chi cục thuế. Số  chi cục thuế cấp tỉnh,  huyện tăng từ 711 lên 415, giảm  2.100 đội thuế.  

 Nếu như năm 2015, để thu được 100 đồng tiền thuế, ngân sách nhà nước phải chi 2,8 đồng thì năm 2018 con số này  chỉ còn 2,24 đồng. Tuy nhiên, chi phí thu thuế của Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước OECD (thu 100 đồng  thuế chỉ mất 1 đồng), Băng-la-đét (thu 100 đồng  thuế chỉ  1,35 đồng năm 2013) (VATJ, 2018). 

  Trước năm 2015, chi tiêu tài khóa của Việt Nam tương đối ổn định. Bình quân giai đoạn 2006-2014, chi ngân sách chiếm khoảng 29% GDP. Trong giai đoạn 2015-2019, chi ngân sách so với GDP của Việt Nam  liên tục giảm, từ 30% GDP năm 2015 xuống chỉ còn 25,9% GDP năm 2018. 

  Số liệu ước tính năm 2019 cho thấy chi ngân sách so với GDP  tăng trở lại, ước đạt 28,9% GDP. Chi cho giáo dục ngày càng tăng nhanh về số chi và ổn định về tỷ trọng. Giai đoạn 2016 - 2019, chi cho giáo dục chiếm khoảng 22% tổng thu thuế, khoảng 23,2% chi thường xuyên NSNN, khoảng 16% tổng thu NSNN và khoảng 4% GDP.  

 Việt Nam có nhiều chính sách chi hỗ trợ các đối tượng khó khăn tiếp cận  giáo dục: miễn, giảm học phí, hỗ trợ tiền ăn. Khi phân bổ ngân sách cho giáo dục, tiêu chuẩn cho các tỉnh miền núi, miền núi, hải đảo có hệ số cao hơn các tỉnh miền xuôi. Buổi học miễn phí dành cho tất cả học sinh tiểu học trên cả nước. 

  Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2020), Chỉ số Cạnh tranh Toàn cầu về Y tế, 2017-2020, mặc dù gia tăng về mức chi tiêu tuyệt đối trong giai đoạn 2016-2018 nhưng tỷ trọng  chi thường xuyên cho y tế trên GDP lại giảm liên tục  từ năm 2013 đến năm 2018. Năm 2013 , chi thường xuyên cho y tế chiếm gần 1,3% GDP, năm 2018 chỉ  chiếm 0,98% GDP. Tỷ lệ  chi thường xuyên cho y tế trên tổng thu ngân sách nhà nước cũng  liên tục giảm từ năm 2014, từ 5,7% năm 2014 xuống chỉ còn 3,8% năm 2018 (cao nhất là 7) . Theo Ngân hàng Thế giới (2017), chi ngân sách nhà nước cho nông nghiệp chiếm dưới 2% GDP,  dưới 10% tổng thu từ thuế và dưới 8% tổng thu ngân sách nhà nước. 

  Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), GDP toàn cầu năm 2020 dự kiến ​​sẽ giảm 4,4%, trong khi Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới có tốc độ tăng trưởng GDP dương 1,6%. Tuy nhiên, việc giảm tốc độ tăng  GDP từ 7,02% xuống còn khoảng 1,6% sẽ làm giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 68 nghìn tỷ đồng so với năm trước. 

 Hơn nữa, với việc triển khai  hàng loạt  giải pháp miễn, giảm, giãn các loại thuế, phí, lệ phí do dịch Covid-19 và tác động của việc dự toán tăng cao, Bộ Tài chính dự kiến ​​năm 2020, NSNN sẽ thất thu. thu khoảng 189,2 nghìn tỷ đồng, giảm 12,5% so với dự toán và giảm 14,7% so với năm 2019. 

 Dịch Covid-19 đã tác động nhiều chiều đến chi NSNN. Một mặt, dịch bệnh Covid-19 đã góp phần làm giảm chi ngân sách nhà nước cho các hoạt động dã ngoại,  đoàn thể, hội họp… Mặt khác, đại dịch Covid-19 cũng làm tăng  chi phí phòng, chống dịch bệnh và việc xây dựng các chương trình hỗ trợ trực tiếp, gián tiếp cho người dân khắc phục hậu quả dịch bệnh, ổn định kinh tế - xã hội, nhất là trong trường hợp dịch bệnh có diễn biến phức tạp,  cần  nhiều biện pháp phòng, chống dịch trên diện rộng. 

 

 Trong bối cảnh đó, nhiều chuyên gia đã đưa ra  khuyến nghị chính sách rằng Việt Nam cần có phương án hiệu quả để giảm chi  và tìm nguồn thu bền vững hơn trong bối cảnh thuế trực thu ngày càng chiếm tỷ trọng cao; đẩy nhanh tiến độ xây dựng dự án thuế tài sản, đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội  nhiệm kỳ 2021-2026. 

 Những thay đổi về tỷ lệ, số tiền thu nhập hoặc người nộp thuế liên quan đến từng khung được yêu cầu để tính tỷ lệ IRP, thay vì chỉ đề cập đến thu nhập tối thiểu không chịu thuế hoặc tăng giảm trừ gia cảnh. Xem xét ưu đãi thuế cho các công ty, đặc biệt là các công ty FDI. Cần tính toán và công bố thông tin về chi tiêu thuế thông qua  ưu đãi thuế cho doanh nghiệp.  

 Đặc biệt, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong tái cơ cấu  chi tiêu tài khóa để giảm nợ công, giảm thâm hụt ngân sách. Tăng chi ngân sách cho y tế  nhưng cần chú ý phối hợp chính sách bảo hiểm y tế và nâng cao  hiệu quả của sự phối hợp này. Dữ liệu về chi tiêu vốn phát triển trong lĩnh vực y tế và giáo dục cần được công khai trong các báo cáo ngân sách. 

  Tăng cường tính công khai, minh bạch về số liệu  chi cho nông nghiệp (bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển) trong các báo cáo ngân sách. Việt Nam nên công khai các khoản thu  quỹ ngoài ngân sách cho người dân. Chính phủ cũng cần tiếp tục nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thu  chi tài khóa ở các cấp chính quyền. Lấy  công khai làm tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức và người phụ trách.  

 Đồng thời, tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý chặt chẽ nguồn thu, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thu thuế, phí, lệ phí; thận trọng cân nhắc  tăng thu từ  bán tài sản, quyền sở hữu tài sản bởi chấp nhận tăng bội chi ngân sách nhà nước và tăng nợ công  ngắn hạn.  

 Trước mắt, trong năm 2020, Chính phủ nên chọn  giải pháp nâng trần nợ công từ mức 4,99% GDP  hiện nay lên mức tối đa là 5,59% GDP nhằm giảm áp lực thu hồi các khoản tiền từ việc bán nợ. vốn nhà nước tại doanh nghiệp lên 38,5 nghìn tỷ đồng. 

  Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong việc lập dự toán và giải ngân vốn đầu tư công, nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu trong việc lập dự toán nhằm tiết kiệm nguồn lực ngân sách nhà nước. 

 Thường xuyên cập nhật tình hình giải ngân vốn đầu tư công, điều chỉnh kế hoạch phát hành trái phiếu công và các khoản vay  (nếu có) cho phù hợp, đảm bảo không để nguồn vốn huy động  bị chậm trễ, lãng phí trong trường hợp  vốn đầu tư phát triển phải luân chuyển  qua nhiều năm.  Tiếp tục thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên theo lộ trình và giải pháp đề ra. Gián tiếp hỗ trợ người dân và doanh nghiệp  thông qua trợ giá các mặt hàng thiết yếu của nhà nước  như giá điện, giá xăng dầu, v.v. 

 

 Tăng  chi hỗ trợ, nâng cao tiềm năng của nền kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Quản lý chặt chẽ các khoản chi hỗ trợ và đảm bảo xã hội đã ban hành, bảo đảm  chi đúng đối tượng, đúng mục đích đề ra...



Tài khóa hay tiền tệ? - Tạp chí Kinh tế Sài Gòn

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo