GS. Trần Thọ Đạt cho rằng, trong quá trình điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ, không có công thức chung hay giải pháp nào là chắc chắn. Phương án nào cũng cần sự quyết đoán và chấp nhận rủi ro nhất định... Sáng nay, 4/1/2022, Quốc hội họp bất thường và một trong 4 nội dung của kỳ họp là thảo luận tờ trình của Chính phủ về cơ chế tài khóa, tiền tệ các chính sách hỗ trợ nhanh việc thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
- Trần Thọ Đạt (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho biết thiệt hại kinh tế do dịch Covid-19 gây ra là rất nặng nề, tuy không dẫn đến tăng trưởng âm như nhiều nước nhưng nó kéo dài 2 năm, tạo đáy hình chữ U chứ không hình chữ V như nhiều nước. Do đó, cần phải đưa ra một kế hoạch phục hồi kinh tế mạnh hơn, nhanh hơn và hiệu quả hơn để nền kinh tế không đáy bắt kịp đà phục hồi của kinh tế toàn cầu. Hiện tại, dù quy mô của chương trình hỗ trợ đang chờ Quốc hội thông qua nhưng những thông tin cơ bản đã được “trình làng”. Nhiều ý kiến cho rằng chính sách tài khóa thời gian qua khá “rụt rè” khi so sánh mức hỗ trợ của chúng ta tính theo % GDP, thấp hơn nhiều so với con số 10%, 20%, thậm chí 40% của một số nước. Tuy nhiên, với quy mô của gói hỗ trợ, cần luôn thận trọng và đặt trong mức thâm hụt tổng thể và “chịu đựng” của tình hình tài khóa hiện tại. Một điểm cần lưu ý là với mức thâm hụt ngân sách khoảng 4% được duy trì trong nhiều năm, cân đối ngân sách của chúng ta có thể tương đương với tình trạng của một số nước trong khu vực khi họ tung ra gói kích cầu lớn gần đây.
Sau đó, theo GS. Trần Thọ Đạt, quy mô gói hỗ trợ nên tính trên “nguồn” huy động được. Bài toán xác định “nguồn” đòi hỏi phải biết các biến số, trước tiên là một số yếu tố để cơ cấu lại ngân sách, yếu tố bổ sung cho ngân sách từ các nguồn chủ động không phải đi vay, sau đó là yếu tố vay nợ. Vì vậy, cần rà soát lại khoản chi thường xuyên, hiện chiếm hơn 60% ngân sách, cắt giảm các khoản chi không cần thiết như đi lại, hội họp, công tác nước ngoài… Một nguồn quan trọng khác có thể tận dụng nhưng vẫn thường bị cho là “chậm tiến độ” là thoái vốn khỏi doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hóa, tốc độ thoái vốn của các doanh nghiệp đại chúng trên mặt bằng hiện rất chậm, thường không đạt kế hoạch đề ra. Một nghịch lý kéo dài là trong khi nền kinh tế và doanh nghiệp khát vốn thì phần lớn vốn và nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước lại được sử dụng kém hiệu quả. Sau đó, một kênh huy động nguồn lực khá thuận lợi hiện nay là vay từ các tổ chức, định chế tài chính quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã “rời khỏi” ODA khi bước sang một giai đoạn phát triển mới với tư cách là một quốc gia có thu nhập trung bình, nhưng các nguồn tài trợ công khác đã tăng lên và vẫn mang tính hỗ trợ khá cao. Cuối cùng, phương án phát hành trái phiếu chính phủ đang được xem xét để tài trợ cho chương trình hỗ trợ. Về cơ cấu chi ưu tiên của chương trình hỗ trợ, ông Trần Thọ Đạt đề nghị, do dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, có những biến thể mới nên ưu tiên bổ sung chi ngân sách cho công tác phòng, chống 'dịch'. Mặt khác, người dân và doanh nghiệp đang kiệt quệ do dịch bệnh kéo dài nên cần dành một tỷ lệ thích đáng trong gói hỗ trợ dưới hình thức tiền thực. Trong khi hỗ trợ tiền mặt cho tất cả mọi người có thể được coi là chững lại, cần cấp bách và mạnh dạn mở rộng hỗ trợ tiền mặt cho những người có thu nhập giảm, chứ không chỉ hỗ trợ những người có thu nhập giảm mạnh, v.v. Cần cấp thiết ban hành và thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động nhập cư có nhu cầu thuê nhà để tránh gián đoạn nguồn cung lao động khi trở lại trạng thái bình thường mới. Có các chính sách hỗ trợ tăng cường thông qua các kênh phi chính thức cho lao động di cư không đăng ký và lao động tự tạo việc làm trong khu vực phi chính thức. Ông Đạt nhấn mạnh hỗ trợ từ ngân sách không nhất thiết là đơn phương tăng chi hỗ trợ. Trong môi trường hiện nay, khi đã cấp thiết cần hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời thì việc ưu tiên giảm chi phí như giảm thuế, phí (ví dụ: giảm thuế môi trường đối với xăng, dầu) càng phải được thực hiện nhanh chóng và mạnh mẽ hơn. Chi phí, thiệt hại của doanh nghiệp trong phòng, chống dịch bệnh ngày càng tăng, tạo gánh nặng lớn cho doanh nghiệp vốn đã căng thẳng do dịch bệnh kéo dài, vì vậy cần ban hành và thực hiện các chính sách nhằm bình ổn giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, và chi phí lưu thông, vận chuyển hàng hóa. Tránh dàn trải liều lượng trung bình, trung bình, thấp vì không gian không cho phép bao quát quá nhiều đối tượng. Bên cạnh hỗ trợ rộng rãi, trong giai đoạn phục hồi, các chính sách hỗ trợ cần có chọn lọc, tập trung nhiều hơn vào những DN có tác động lan tỏa mạnh đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế để tránh đổ vỡ dây chuyền trong nền kinh tế. Theo GS. Trần Thọ Đạt, hỗ trợ đầu tư công và đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư công là giải pháp phù hợp, nhưng cần cân nhắc kỹ quy mô. Nguồn lực của đất nước còn hạn chế, nhất là trong bối cảnh ngân sách thâm hụt mà vẫn phải “vươn vai” bơm thêm các chương trình hỗ trợ, vậy tiền cần phân bổ vào đâu để mang lại hiệu quả cao nhất, việc trả nợ trong thời gian tới là lời giải cho bài toán phân bổ nguồn lực tối ưu. Hỗ trợ đầu tư công cần nhìn từ hiệu quả lâu dài, không chạy theo số lượng, không “áp đảo” đầu tư tư nhân (kể cả thông qua cạnh tranh tín dụng trong nước), tạo hiệu ứng “hút” đầu tư tư nhân và hỗ trợ phát triển nền kinh tế. khu vực tư nhân trong nước.
Ông Đạt lưu ý, trong quá trình chuyển đổi từ hỗ trợ khẩn cấp sang hỗ trợ phục hồi và phát triển, chi ngân sách cần hướng tới việc thay đổi xu hướng cấu trúc nền kinh tế hậu đại dịch thông qua các kế hoạch phục hồi kỹ thuật số, đầu tư cho công nghệ và hạ tầng kỹ thuật số đóng vai trò hỗ trợ vai trò đối với toàn bộ nền kinh tế, bằng cách thúc đẩy đổi mới sáng tạo và số hóa nền kinh tế, và các chính sách hỗ trợ tài chính cho khởi nghiệp. Đồng thời, cũng là cơ hội để xem xét, xem xét lại một số sắc thuế nhằm khuyến khích chuyển đổi số, sản xuất thông minh, phát triển năng lượng xanh - sạch, nông nghiệp sinh thái.
Về chính sách tiền tệ, GS Trần Thọ Đạt nhấn mạnh cần theo dõi sát tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp lý thông qua việc chủ động, linh hoạt điều chỉnh lãi suất điều hành và tỷ lệ dự trữ bắt buộc khi cần thiết, chủ động duy trì lãi suất ổn định. mặt bằng lãi suất phù hợp với cân đối kinh tế vĩ mô, giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp và cá nhân. Việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất cần rút ra bài học kinh nghiệm về đối tượng được hỗ trợ và khung thời gian thực hiện.
Theo ông Đạt, trong khi nhiều đối tác thương mại, đầu tư lớn của Việt Nam triển khai các giải pháp “rút củi đáy nồi” để đối phó với lạm phát gia tăng sau khi tung ra chương trình hỗ trợ chưa từng có, thì các nước đang phát triển ở châu Á, trong đó có nước ta, lại chậm chân hơn. giai đoạn phục hồi kinh tế, việc thực hiện hỗ trợ chi đầu tư sẽ phát sinh thêm một yếu tố gây lạm phát là rủi ro lạm phát. Vì vậy, việc phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ sao cho từng chính sách phát huy hết tác dụng và phối hợp với nhau hiệu quả là chìa khóa để chương trình hỗ trợ đạt được mục tiêu: nền kinh tế nhanh chóng trở lại quỹ đạo tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững.
Trong cơ chế phối hợp này, về nguyên tắc, chính sách tài khóa vừa có tác dụng nới lỏng vừa có tác dụng hỗ trợ, còn chính sách tiền tệ có tác dụng hỗ trợ là chính. Chính sách tài khóa phải được phối hợp với chính sách tiền tệ để đảm bảo dòng tiền, thanh khoản và đạt được sự cân bằng tối ưu của ít nhất hai biến số là tăng trưởng và lạm phát. Về tổng thể, cần kiểm soát lạm phát và lãi suất ở mức mục tiêu, tỷ giá ổn định, hệ thống tài chính tiền tệ an toàn để nền kinh tế phục hồi nhanh sau đại dịch. Trong cơ chế của hai chính sách này, cần có quyết sách, đúng thời điểm, đúng liều lượng của chính sách tài khóa để kích tổng cầu và khi có nguy cơ đẩy lạm phát lên thì phải “hóa giải” bằng một điều chỉnh kịp thời dòng tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở của chính sách tiền tệ. Việc phối hợp các nỗ lực phải đảm bảo quản lý tốt hơn kho bạc công và hỗ trợ, điều phối kho bạc để cải thiện khả năng quản lý dòng tiền của nền kinh tế. Mặt khác, khi chính sách tiền tệ cần mở rộng để hỗ trợ thanh khoản, rủi ro lạm phát cao thì cần có sự hỗ trợ của chính sách tài khóa, thậm chí cả chính sách thương mại, giá để giảm thuế, giảm chi phí đầu vào và không tạo ra lạm phát. kỳ vọng.
- Trần Thọ Đạt cho rằng, trong quá trình phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, không có một công thức hay giải pháp chắc chắn nào có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người. Bất kỳ quy hoạch nào cũng đòi hỏi sự quyết đoán và chấp nhận rủi ro, vì vậy để đưa ra một quyết định hợp lý nhất, các cơ quan phê duyệt, lập và điều hành quy hoạch thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Chính phủ phải có số liệu chính xác, kịp thời và đầy đủ nhất về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, dự báo các chỉ tiêu biến động của thị trường để phối hợp chủ động, chặt chẽ, hiệu quả. Để thực hiện nghị quyết của Quốc hội và nghị định của chính phủ về thực hiện chương trình phục hồi, sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ phải được thể hiện trong các kịch bản nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô và giảm thiểu rủi ro tài khóa và tiền tệ cho nền kinh tế . Điều quan trọng nhất là đảm bảo huy động và sử dụng các nguồn lực để đầu tư hiệu quả, kinh tế phục hồi nhanh, ngân sách được cải thiện, rủi ro nợ công được giảm thiểu và nền kinh tế phục hồi sẽ có lộ trình phát triển bền vững hơn.
Theo cà phê
Nội dung bài viết:
Bình luận