Nhưng điều phối chính sách như “thỏa thuận” vừa qua giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy tầm quan trọng của việc điều hòa linh hoạt đồng thời hai chính sách để tránh tình trạng trì trệ đầu ra. các doanh nghiệp.
Giảm lãi suất: tốt... nhưng chưa đủ
Diễn biến lạm phát đang có những tín hiệu tích cực khi chỉ số lạm phát tính theo năm tháng 2 đã giảm xuống 16,4% từ mức 17,3% của tháng 1. Nếu loại trừ yếu tố mùa vụ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng này chỉ tăng. 0,4% so với 0,6% trong tháng Giêng. Như vậy, lạm phát giảm tháng thứ 6 liên tiếp, xuống mức thấp nhất trong 11 tháng qua. Mặc dù vẫn còn rủi ro lạm phát (đặc biệt là giá xăng dầu tăng cao và giá điện sắp tăng), chúng tôi vẫn cho rằng khả năng kiểm soát tốc độ tăng CPI cả năm ở mức một con số là có thật.
Việc thắt chặt chính sách tiền tệ chung dự kiến sẽ tiếp tục trong năm nay, mặc dù NHNN vừa cắt giảm lãi suất điều hành 1 điểm phần trăm nhằm giảm gánh nặng lãi suất cho hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc dù có thể hiểu được động lực cần thiết cho giai đoạn mới này của NHNN, nhưng quan trọng hơn, vẫn cần phải giảm tổng cầu trong nền kinh tế nếu muốn lạm phát thực sự được kiểm soát. Trong bối cảnh chi tiêu tài khóa vẫn “khởi sắc” thì nền kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với tình thế khó cân bằng giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Một con đường khác là cắt giảm thuế (ví dụ: cắt giảm thuế doanh nghiệp từ 25% xuống 20%) để khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư và sản xuất, nhưng bù lại phải cắt giảm chi tiêu (ví dụ: chi ngân sách thường xuyên, và đặc biệt là đầu tư công) mạnh hơn để hạn chế thâm hụt ngân sách. tỷ lệ thâm hụt/GDP. phối hợp cần thiết
Việc điều chỉnh chính sách phù hợp với tuyên bố “phối hợp” giữa NHNN và Bộ Tài chính sau thỏa thuận chính thức mới đây vào tháng 3/2012. và phát hành trái phiếu chính phủ thường xuyên (Bộ Tài chính). Nhưng sự phối hợp cần thiết nhất là xây dựng các chính sách tài khóa và tiền tệ hàng năm để đạt được các mục tiêu lạm phát, tăng trưởng và cán cân thanh toán tổng thể hàng năm của nền kinh tế trong một “chương trình tài chính chính” (financial programming Exercise).
Chính phủ cần giám sát sự phối hợp chính sách chặt chẽ này để thực hiện hiệu quả việc khôi phục ổn định tài chính quốc gia, ví dụ như trong báo cáo thường niên tập trung vào ổn định tài chính trong lĩnh vực tiền tệ - tài chính lành mạnh cũng như bền vững tài khóa. Ít nhất sự kết hợp này có thể được giải thích rõ ràng và được hỗ trợ về mặt lý thuyết bởi mô hình IS-LM khá quen thuộc trong kinh tế học vĩ mô.
Điều chỉnh phương pháp tiếp cận chống lạm phát và giảm lãi suất: mô hình IS-LM
Mô hình IS-LM là một mô hình lý thuyết đơn giản nhưng có ý nghĩa chính sách khá thuyết phục cho tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay:
- Mô hình IS-LM có thể được coi như là công cụ cơ bản nhất để hiển thị các tác động của cả hai chính sách tài khóa (IS) và chính sách tiền tệ (LM) lên đầu ra Y (tăng trưởng) và lãi suất (r).
- Chính sách tài khóa mở rộng được sử dụng ở Việt Nam từ năm ngoái có thể được hiểu là có xu hướng để di chuyển đường cong IS sang bên phải, nâng cao lãi suất r và đầu ra Y (đẩy tăng trưởng cao).
- Vì chính sách tài khóa mở rộng (do gia tăng chi tiêu chính phủ) sẽ làm tăng bội chi ngân sách được tài trợ trực tiếp hay gián tiếp bởi NHNN (qua việc phát hành trái phiếu chính phủ bán cho các ngân hàng thương mại rồi sau cùng được tái chiết khấu hay tái cấp vốn qua các “cửa sổ” này của NHNN), đường cong LM cũng sẽ di chuyển sang bên phải, tăng mức lãi suất cân bằng từ r0 đến r1 và tổng sản lượng từ Y0 đến Y1, hàm ý cả lãi suất lẫn sản lượng đều cao hơn. Tổng sản lượng cao hơn bao nhiêu là tùy theo mức sản lượng tiềm năng (potential output) đã gần được chạm đến chưa, và tùy theo việc có nhiều hay ít cản trở trong chu trình sản xuất (thí dụ do cản trở hành chính, tham nhũng, giải phóng mặt bằng đất đai...).
Trong trường hợp của Việt Nam, có vẻ như khả năng sản xuất và hiệu quả nền kinh tế đang đến các giới hạn đặt ra bởi sự thiếu nhân công có tay nghề cao, đất đai có năng suất cao và công nghệ bị giới hạn... gây ra những trở ngại đáng kể cho chu trình sản xuất. Kết quả là, sự chuyển động của các đường IS và LM trên biểu đồ có thể chỉ tạo ra một sự gia tăng nhỏ trong tổng sản lượng Y, nhưng đẩy lạm phát lên mức cao mới do sự gia tăng tổng cầu.
- Mặt khác, việc thắt chặt chính sách tiền tệ/tín dụng được thực hiện từ tháng 2/2011 cũng có xu hướng làm dịch chuyển đường LM sang trái, làm tăng lãi suất r và giảm Y (do tổng cầu giảm).
- Tóm lại, lãi suất cao hiện nay ở Việt Nam có thể dễ dàng được giải thích bằng cả chính sách tiền tệ và tài khóa đang thực hiện. Do đó, chúng tôi khuyến nghị sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt (dịch chuyển đường IS sang trái) làm công cụ chính để đối phó với lạm phát và giúp hạ lãi suất. Để làm gì? Bởi một chính sách tài khóa thắt chặt sẽ làm giảm nhu cầu phát hành trái phiếu chính phủ và giảm việc tài trợ thâm hụt tài khóa bởi khu vực ngân hàng. Trong khi đó, chúng ta có thể áp dụng chính sách nới lỏng dần chính sách tiền tệ đã công bố (dịch chuyển đường LM sang phải) để hạ lãi suất và tăng Y để giảm tình trạng đình trệ sản lượng. Nghệ thuật ở đây là liều lượng phù hợp giữa hai chính sách và dẫn đến cần có sự phối hợp chính sách giữa NHNN và Bộ Tài chính như Chính phủ lưu ý.
Ngoài ra, các hoạt động cụ thể sau phải được thực hiện:
- Đưa ra các quyết định về chính sách tài khóa nhằm giảm tổng cầu bằng cách giảm đầu tư công. - Chính sách tiền tệ linh hoạt hơn để hỗ trợ khu vực sản xuất, theo đó phải đáp ứng mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15-17% trong năm nay.
- NHNN sẽ dựa nhiều hơn vào thị trường mở và chính sách dự trữ bắt buộc (đặc biệt với tiền gửi ngoại tệ) để kiểm soát cung tiền. Cùng với đó, NHNN nên cắt giảm lãi suất để khôi phục đường cong lãi suất bình thường và loại bỏ những méo mó hiện có trên thị trường tín dụng và lãi suất.
- Khi thanh khoản của hệ thống ngân hàng ổn định trở lại, NHNN nên bỏ trần lãi suất để tăng cường vai trò của cơ chế thị trường trong hệ thống ngân hàng, thay vì áp dụng các công cụ hành chính đi kèm với nhiều tác dụng phụ.
- Việc phối hợp các chính sách trên cũng nhằm giảm thiểu hiệu ứng lấn át của khu vực công đối với khu vực tư nhân. Mong muốn kiểm soát chi ngân sách tốt hơn nên được áp dụng từ quý II/2012 và trong quá trình lập dự toán ngân sách năm 2013.
Nội dung bài viết:
Bình luận