Hạn sách tài khóa khác chính sách tiền tệ

Chính sách tài khóa là gì? Vai trò của chính sách trong kinh tế - VCSC

Chính sách tài khóa  và chính sách tiền tệ  là hai công cụ quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô  ở mọi quốc gia và  phụ thuộc lẫn nhau. Chính sách tiền tệ thường được thực hiện để đạt được  lạm phát thấp và ổn định nền kinh tế trước những cú sốc về sản lượng và giá cả. Trong khi đó, chính sách tài khóa thường nhắm vào việc làm và tăng trưởng cao, thậm chí phải trả giá bằng lạm phát cao. Mặc dù mỗi chính sách được vận hành theo một hướng khác nhau, tùy theo yêu cầu và bối cảnh kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, nhưng các nghiên cứu lý luận và thực tiễn  cho thấy, sự thay đổi chính sách của chính sách này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách còn lại. Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô tối ưu về tăng trưởng và ổn định giá cả, hai chính sách này phải được phối hợp và bổ sung cho nhau.  1. Phối hợp chính sách tài khóa và  tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 

 Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008), Việt Nam đã xây dựng  các mục tiêu phối hợp tương đối đồng bộ, đúng định hướng, phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội của từng thời kỳ: sử dụng chính sách tài khóa hạn chế và chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát; sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích nền kinh tế, ngăn chặn  suy giảm kinh tế. Căn cứ vào  diễn biến của nền kinh tế,  có thể chia quá trình điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa 2011-2015 thành 2 giai đoạn: (i) Giai đoạn 2010-2011: Kiểm soát lạm phát; (ii) Giai đoạn 2012-2015: Ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp. Đặc biệt: 

 - Giai đoạn 2010 - 2011 (Kiểm soát lạm phát): 

 Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang trong tình trạng lạm phát cao nên Chính phủ đã xác định nhiệm vụ  giai đoạn này chủ yếu tập trung  vào  kiểm soát lạm phát, thông qua việc công bố Nghị quyết 11/NQ-CP (2011). Sự phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô và tầm quan trọng của sự phối hợp cũng được chỉ rõ  trong Nghị quyết 11/NQ-CP. Chính sách tài khóa – tiền tệ giai đoạn này được thực hiện theo hướng thắt chặt thông qua các biện pháp: tăng lãi suất cơ bản, quy định trần lãi suất huy động, tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn; tăng tỷ giá; hạn chế tăng trưởng tín dụng và cung tiền; cắt giảm đầu tư, tiết kiệm 10% chi tiêu[i].  Mặc dù phối hợp chính sách tài khóa – tiền tệ được tăng cường nhằm ứng phó với lạm phát, tuy nhiên, trong giai đoạn này, tốc độ lạm phát vẫn ởmức khá cao, đồng thời tác động của chính sách tài khóa – tiền tệ nới lỏng đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả, tốc độ tăng GDP đã giảm từ mức 6,24% của năm 2011 xuống còn 5,25% vào năm 2012 trong khi một số lĩnh vực sản xuất có dấu hiệu suy giảm, tăng chậm lại và có nguy cơ nền kinh tế rơi vào thiểu phát. Thực tế này đã buộc chính sách tài khóa – tiền tệ chuyển sang hướng ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong các năm tiếp theo.

  - Giai đoạn 2012-2015 (Ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ doanh nghiệp): 

 Để tăng cường công tác phối hợp, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước đã ký kết Quy chế phối hợp công tác và trao đổi thông tin (ngày 29/2/2012) với 5 nội dung chính gồm: (i) Phối hợp xây dựng và điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ; Quản lý ngân quỹ của Chính phủ và phát triển hệ thống thanh toán; Quản lý nợ quốc gia và vốn ODA; (ii) Phối hợp trong việc phát triển các thị trường tài chính an toàn, bền vững; (iii) Phối hợp trong việc thực hiện công tác quản lý, giám sát liên quan đến thu thuế, hải quan qua hệ thống ngân hàng; (iv) Phối hợp trong lĩnh vực hợp tác quốc tế thông qua việc chia sẻ thông tin; (v) Phối hợp trong nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ đảm bảo phù hợp với nhu cầu của hai Bộ.  Quyết định số 1317/QĐ-TTg  phê duyệt Phương án đổi mới cơ chế phối hợp  quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô  được ban hành ngày 06/8/2013, sau đó là ngày 02/12/2014. Các cơ quan gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Bộ Công Thương ban hành Quy chế phối hợp  quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô. Việc tăng cường phối hợp trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô  nhằm nâng cao tính đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô và phản ứng nhanh, hiệu quả với những biến động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước trong và ngoài nước trong từng thời kỳ, thực hiện mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, hướng tới phát triển bền vững.  Cùng với việc tạo lập hành lang pháp lý cho cơ chế điều phối  vĩ mô, trên thực tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng đã từng bước được phối hợp nhịp nhàng trong giai đoạn 2012-2015. Như vậy, ngay từ đầu năm 2012, trước tình hình tăng trưởng yếu, nền kinh tế có dấu hiệu suy giảm, chứng khoán tăng cao, ngày 03/01/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP quy định những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. - Kế hoạch phát triển kinh tế  và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012. Các giải pháp chủ yếu của Nghị quyết 01 trên lĩnh vực kinh tế - tài chính bao gồm: Nhấn mạnh kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể hơn, chính sách tiền tệ phải chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt; tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa lành mạnh, hiệu quả; tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, tổ chức tốt thị trường nội địa; khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hạn chế nhập siêu.  Việc thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP đã giúp nền kinh tế nước ta thu được những kết quả bước đầu tích cực  (lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; kinh tế vĩ mô nhìn chung ổn định; an sinh xã hội được bảo đảm). Tuy nhiên, việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn; sức mua của thị trường giảm sút; Nền kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng tốc độ tăng thấp hơn  cùng kỳ năm 2011. Vì vậy, ngày 10/5/2012, chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 13 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn  sản xuất kinh doanh. , hỗ trợ thị trường. Do đó, chính sách tài khóa và tiền tệ đã được điều hành theo hướng thận trọng. Đồng thời, để hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo định hướng của Nghị quyết 02/NQ-CP, NHNN tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong những năm tiếp theo (2013-2015): (i) tiếp tục hạ mặt bằng lãi suất tín dụng phù hợp với mức giảm của lạm phát; (ii) có biện pháp hỗ trợ, đơn giản hóa thủ tục cho vay; và (iii) tăng tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.  Chính sách thu tiếp tục được điều chỉnh theo hướng tăng cường tiềm lực tài chính cho doanh nghiệp thông qua việc giảm bớt nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và người dân, tạo thêm nguồn lực cho doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh.Cụ thể: (i) Thuế TNDN đã giảm mức thuế suất phổ thông từ mức 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014 và theo mức 20% từ ngày 01/01/2016, áp dụng mức thuế suất 20% từ ngày 01/7/2013 đối với doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ; (ii) Thuế TNCN đã nâng mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, nâng mức chiết trừ gia cảnh cho người phụ thuộc từ mức 1,6 triệu đồng/ tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng; (iii) Thực hiện miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, miễn thu thuỷ lợi phí,… 

 Bên cạnh đó, chính sách chi ngân sách được điều hành chặt chẽ, thực hiện phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, tiếp tục kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi NSNN; đồng thời đã thực hiện có kết quả quá trình tái cơ cấu đầu tư công theo định hướng đề ra. Tổng chi NSNN giai đoạn 2011-2015 đạt mức bình quân 27,78% GDP, cơ cấu chi ngân sách chuyển dịch theo hướng tăng chi cho con người. Tỷ trọng chi đầu tư trên tổng chi NSNN đã giảm từ 21,6% năm 2010 xuống còn 16,2% năm 2014 và dự kiến năm 2015 là 17,1%. Tỷ trọng chi thường xuyên trên tổng chi NSNN giai đoạn 2011-2015 ở mức trung bình 64,8%, tăng gần 10% so với các giai đoạn trước (giai đoạn 2006-2010 bình quân chiếm khoảng 54-55% tổng chi NSNN). Trong đó, đã chủ động bố trí NSNN ưu tiên đầu tư thực hiện cải cách tiền lương, chính sách an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa... (Bảng 1) 

 Bảng 1: Một số chỉ tiêu phối hợp CSTK và CSTT, 2008-2015 

 Chỉ tiêu (cuối kỳ) 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015* 

 Tăng trưởng GDP (% năm) 5,66 5,4 6,42 6,24 5,25 5,42 5,98 6,68 

 Lạm phát (% năm) 19,9 6,5 11,75 18,13 6,81 6,04 1,84 0,63 

 Lãi suất cơ bản (%) 8,5 8 9 9 9 9 9 9 

 Lãi suất tái chiết khấu (%) 7,5 6 7 13 7 7 6,5 6,5 

 Lãi suất tái cấp vốn (%) 9,5 8 9 15 9 5 4,5 4,5 

 Tăng trưởng M2 (% so với tháng 12 năm trước) 20,31 28,99 33,3 12,07 18,46 18,51 17,69 16-18 

 Tăng trưởng tín dụng (% so với tháng 12 năm trước) 23,38 39,57 32,43 14,7 8,85 12,51 14,16 17-18 

 Tăng trưởng huy động (% so với tháng 12 năm trước) 22,84 29,88 36,24 12,39 17,87 19,78 15,15 13-15 

 Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (USD/VND) 16.977 17.941 18.932 20.828 20.828 21.036 21.246 21.890 

 Bội chi NSNN (% GDP) 4,58 6,9 5,5 4,4 5,36 6,6 5,69 5,3 

 Dư nợ công (% GDP) 44,3 52,9 51,7 50,1 50,8 54,2 60,3 64 

 (Nguồn: GSO, Bộ Tài chính, NHNN. Số liệu năm 2015 là số kế hoạch, ước tính) 

 

 Nhận xét: 

 Nhìn chung, việc tăng cường phối hợp trong điều hành chính sách vĩ mô được chú trọng nhằm tăng cường tính thống nhất, hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô, ứng phó kịp thời hiệu quả với các biến động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước trong từng thời kỳ, thực hiện mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, hướng đến phát triển bền vững. Kết quả của việc phối hợp chính sách tiền tệ– tài khóa 2011-2015 đã đem lại môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu phục hồi khả quan hơn. Phân tích GDP cho thấy xu hướng hồi phục tăng trưởng đã rõ nét hơn trong năm 2014-2015. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2015 tăng 6,68%, cao nhất trong 5 năm qua. Các cân đối kinh tế vĩ mô cũng tích cực hơn với lạm phát duy trì ở mức thấp nhất trong 14 năm (+0,58% trong 11 tháng  2015), dự trữ ngoại hối tăng, mặt bằng lãi suất giảm.  Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ trong thời gian  qua cũng còn những hạn chế, thách thức: 

 - Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mới chỉ nhằm giải quyết từng mục tiêu kinh tế vĩ mô ưu tiên trong từng thời điểm mà chưa có sự phối hợp thực chất để giải quyết đồng bộ tất cả các mục tiêu vĩ mô: Ví dụ, khi có nguy cơ lạm phát cao, chính sách tập trung vào các giải pháp chống lạm phát bằng chính sách thắt chặt tài khóa và tiền tệ đã khiến tốc độ tăng trưởng thấp hơn. Tuy nhiên, khi lạm phát có dấu hiệu giảm, chính sách kích thích tăng trưởng theo hướng nới lỏng tài khóa - tiền tệ, thúc đẩy đầu tư và kích cầu tiêu dùng được thực hiện triệt để đã khiến lạm phát bùng nổ. Chu kỳ này lặp đi lặp lại nhiều lần trong giai đoạn 2008-2013 khiến môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, gây khó khăn cho  doanh nghiệp trong việc xây dựng và triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh.  - Chưa có cơ sở khoa học đầy đủ để quyết định lựa chọn chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa là công cụ  phát huy  tác động mạnh nhất đến tổng cầu/ hay liều lượng tác động của từng công cụ đến tổng cầu bao nhiêu là hợp lý trong từng nền kinh tế cụ thể. nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế hoặc lạm phát.  - Về cơ chế điều phối, Việt Nam  có Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ nhưng cơ quan này mới  dừng  ở chức năng tham mưu, tư vấn chứ chưa có quyền quyết định cũng như  trách nhiệm trong các vấn đề liên quan đến chính trị. Chưa có  tổ chức chuyên trách theo dõi, điều phối và đánh giá công tác phối hợp, thiếu  hệ thống công cụ đánh giá  chính sách, cũng như chế tài đủ mạnh để xử lý các vi phạm trong công tác điều phối, quản lý và giám sát hiệu quả kinh tế vĩ mô.  2. Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ giai đoạn 2016-2020 

 Mục tiêu tổng quát  phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2020 là “Phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được tôn trọng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được cải thiện; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo”. Theo đó, nhiệm vụ  ưu tiên là ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tăng trưởng với tốc độ hợp lý, đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện  cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế, tập trung chủ yếu  vào 3 lĩnh vực quan trọng: tái cơ cấu  đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu  hệ thống tài chính - ngân hàng, trọng tâm là  hệ thống các tổ chức tín dụng; tái cơ cấu  doanh nghiệp, trọng tâm là  tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Trong đó phấn đấu đến năm 2020 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh gấp khoảng 2,2 lần  năm 2010. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng  công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85%  GDP. (Hoạt cảnh 2)



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo