Hạn mô chính sách tài khóa

Diễn đàn Chính sách tài khóa và Phát triển năm 2022 với chủ đề "Những thách thức về chính sách kinh tế vĩ mô hậu Covid" do Liên minh Vì Công bằng Thuế Việt Nam (VATJ) và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) phối hợp tổ chức ngày 24/11 tại Hà Nội. 

 

 Giảm dần các nguồn thu thiếu bền vững, cải thiện cơ cấu chi ngân sách 

 

 Cộng sự, TS. Ông Phạm Thế Anh - chuyên gia kinh tế trưởng của VESS - cho biết, trong giai đoạn 1991-2021, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng ấn tượng với GDP tăng bình quân 6,57%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định so với thế giới. Quy mô kinh tế năm 2021 đạt xấp xỉ 363 tỷ USD, nằm trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới.  Tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức một con số. Cán cân thương mại liên tục thặng dư từ năm 2016; đầu tư nước ngoài ổn định; dự trữ ngoại hối đã được nhân 10  giai đoạn 2010-2021... 

 

 Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Tăng trưởng GDP có xu hướng giảm dần. 

  Cụ thể, 10 năm sau đổi mới (1991-2000), GDP của Việt Nam tăng  7,6%/năm,  10 năm tiếp theo (2001-2010), tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống còn 6,6%/năm và 10 năm qua (2011-2011-2010) 2021), GDP đã giảm ở mức 5,6%/năm.  

 gdp.jpg 

 Nguồn: VESS 

 Năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt gần 3.700 USD, gấp 2,4 lần so với năm 2011. Tuy nhiên,  xét về GDP bình quân đầu người theo sức mua tương đương, GDP của Việt Nam chỉ bằng 17% của Hoa Kỳ; bằng khoảng 24-26% của Nhật Bản và Hàn Quốc (chậm khoảng 33 năm); bằng 40% của Malaysia (chậm 30 năm) và bằng khoảng 61% của Thái Lan và Trung Quốc (chậm 9 năm). 

 Riêng PGS.TS Phạm Thế Anh cho biết nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với gánh nặng nợ công có thể gây bất ổn cho nền kinh tế trong thập kỷ tới. 

 Trong giai đoạn 2010-2021, nợ công của Việt Nam đã nhân 3,2 lần (từ 1.144 lên 3.655 triệu tỷ đồng), tốc độ tăng 11,3%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. 

  Một thách thức khác là tăng trưởng của Việt Nam phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Liên quan đến thu ngân sách nhà nước, PGS. Ông Phạm Thế Anh cho biết, tốc độ tăng trưởng doanh thu có chậm lại nhưng vẫn ở mức cao từ 11,5%/năm giai đoạn 2011-2015 lên 8,8%/năm giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tăng từ 23,6% lên 25,2% so với cùng kỳ, cao nhất trong ASEAN-5.  

 Tỷ lệ thu từ thuế và phí giảm nhanh, từ 88%  năm 2011 xuống  72%  năm 2020. Tỷ trọng thu từ thuế  doanh nghiệp giảm nhanh, gần đây chỉ đạt khoảng 17%. Thuế tiêu thụ đặc biệt chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng giảm nhẹ. 

  Tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu giai đoạn 2016 - 2020 giảm  một nửa so với giai đoạn 2011 - 2015. Tỷ trọng thu tiền sử dụng đất, thuế bảo vệ môi trường và thu khác tăng nhanh. 

  Chi ngân sách nhà nước tăng gần gấp đôi sau một thập kỷ. Cơ cấu chi chưa hợp lý. Chi hàng năm liên tục vượt dự toán cho thấy kỷ luật ngân sách chưa nghiêm, đặc biệt  trong giai đoạn 2011-2015. Chi NSNN tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực… 

 

 Kiến nghị một số nội dung liên quan đến chính sách thuế, PGS. Phạm Thế Anh nhấn mạnh,  mục tiêu cao nhất là bảo đảm  tính bền vững của nợ công, tức là ổn định quy mô nợ công theo khả năng thu hồi ngân sách của Nhà nước và kiểm soát  nợ/thu ngân sách.  

 Thu ngân sách nhà nước cần giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn thu thiếu bền vững, tránh phát sinh các loại phí, lệ phí mới.  

 Đặc biệt, chính sách tài khóa nên định hướng ngược chu kỳ (trong những năm  kinh tế tăng trưởng mạnh cần  thặng dư ngân sách để tích lũy nguồn và dự phòng  chi tiêu  khi có dịch bệnh như Covid hoặc khi kinh tế toàn cầu khó khăn) . Ngoài ra, cần hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách theo hướng giảm tiêu dùng, tăng chi đầu tư phát triển. 

  Bỏ trần tín dụng, kiểm soát tăng  cung tiền... 

  pham-the-anh.jpg 

 Cộng sự, TS. Phạm Anh Anh 

 Về chính sách tiền tệ, theo PGS. Phạm Thế Anh, chính sách tiền tệ của Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua theo đuổi nhiều mục tiêu, bên cạnh kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, còn hỗ trợ tăng trưởng.  Thực tế cho thấy, khi  Việt Nam duy trì tốc độ tăng  cung tiền cao thì  lạm phát cũng sẽ cao. Điều này cho thấy,  Việt Nam muốn duy trì lạm phát ổn định thì phải kiểm soát  tốc độ tăng  cung tiền.  

 Hiệu quả sử dụng vốn tín dụng ngày càng thấp, thể hiện qua tốc độ tăng nhanh của dư nợ tín dụng/GDP. 

 Tốc độ tăng  cung tiền tuy có giảm so với các năm trước  nhưng vẫn ở mức cao so với các nước. 

 Cộng sự, TS. Phạm Thế Anh cho rằng, điều hành chính sách tiền tệ  còn mang  tính hành chính cao như: Áp trần lãi suất, trần tăng trưởng tín dụng. 

  Từ đó, PGS. Phạm Thế Anh khuyến nghị: Thứ nhất, ưu tiên cho mục tiêu kiểm soát lạm phát, kiểm soát tốc độ tăng  cung tiền  phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế. 

  Thứ hai, chính sách tiền tệ phải được điều hành theo các quy tắc minh bạch và có thể dự đoán được. Tránh nhảy từ thái cực này sang thái cực khác một cách đột ngột.  Thứ ba, tăng cường  chính sách thận trọng  vĩ mô, giám sát  an toàn  hệ thống như kiểm soát tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, huy động/cho vay trung dài hạn, nợ xấu… 

 

 Thứ tư, nên theo đuổi chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý và loại bỏ các biện pháp can thiệp hành chính vào điều hành chính sách tiền tệ. 

 Ngoài ra, theo PGS. Phạm Thế Anh,  việc sử dụng trần tín dụng cũng như các biện pháp can thiệp hành chính trực tiếp khác vào thị trường vốn/tiền tệ cần sớm được chấm dứt. 

 Thay vào đó, cần kiểm soát  cơ sở tiền tệ và cung tiền, điều tiết gián tiếp thông qua lãi suất mục tiêu, giám sát chặt chẽ  các ngân hàng thương mại về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ cho vay trên vốn huy động (LTD), tỷ lệ nợ xấu. , tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn cho vay trung  dài hạn.../.



Chính sách tài khóa nới lỏng là trụ cột thúc đẩy phục hồi kinh tế | Thời  báo Tài chính Việt Nam

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo