Hạn hỏi trắc nghiệm về chính sách tài khóa

Giới thiệu ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2018: Hướng Tới  Chính Sách Tài Khóa Bền Vững Và Hỗ Trợ Tăng Trưởng

Quốc tế đánh giá cao nỗ lực chống lạm phát của Việt Nam 

 Sự gián đoạn chuỗi cung ứng do đại dịch COVID-19 và cuộc xung đột sau đó  giữa Nga và Ukraine đã khiến giá năng lượng và lương thực tăng vọt trên khắp thế giới. Bắt đầu từ những nền kinh tế phát triển, lạm phát đã trở thành câu chuyện chung của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, lạm phát hiện  vẫn đang được kiểm soát tốt nhờ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và kiểm soát nguồn cung các nhu yếu phẩm  trong nước. 

 

  IMF coi Việt Nam là điểm sáng của khu vực trong quá trình phục hồi. (Ảnh: TTXVN) 

 Nỗ lực KIỂM SOÁT LẠM PHÁT HIỆU QUẢ 

 

 Giám đốc truyền thông của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Pemba Tshering Sherpa cho biết lạm phát của Việt Nam thấp hơn  hầu hết các nước trong khu vực. Cho đến gần đây, lạm phát hầu như chỉ giới hạn ở một số  hàng hóa nhất định như nhiên liệu và các dịch vụ sử dụng nhiều nhiên liệu như vận tải. 

  Sherpa cho biết người tiêu dùng phần lớn không bị ảnh hưởng bởi  giá lương thực  toàn cầu cao hơn do nguồn cung trong nước dồi dào, giá thịt lợn thấp hơn so với mức đỉnh của năm ngoái và thói quen tiêu dùng gạo, lúa mì và các loại ngũ cốc rẻ hơn. 

 Theo bà Sherpa, việc  giảm thuế môi trường và các loại thuế, phí khác đối với mặt hàng xăng dầu  (thuế nhập khẩu ưu đãi, thuế tiêu thụ đặc biệt) giúp giảm  tác động của giá xăng dầu thế giới tăng cao đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, việc giữ nguyên giá đối với một số dịch vụ, bao gồm điện, y tế và giáo dục, cũng giúp kiểm soát lạm phát  cho đến nay. 

  Trong khi đó, Chuyên gia kinh tế trưởng  Văn phòng Ngân hàng Phát triển châu Á (AfDB) Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cường cho biết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang tăng trần lãi suất huy động và tăng trần lãi suất cho vay. biên độ tỷ giá hối đoái ±3% đến ±5% là khá phù hợp, giúp ổn định  vĩ mô cho tăng trưởng trung và dài hạn.  Về tác động đối với xuất khẩu của diễn biến trên,  lãi suất tăng sẽ làm tăng giá trị đồng tiền, làm tăng chi phí vốn cho  doanh nghiệp, trong khi  biên độ lãi suất mở rộng sẽ làm giảm giá trị đồng tiền. Đồng tiền Việt Nam có xu hướng mất giá sẽ hỗ trợ xuất khẩu nhưng lại ảnh hưởng tiêu cực đến nhập khẩu. Xu hướng trượt  có khả năng tăng lên. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn xuất siêu 8 tỷ USD tính đến giữa tháng 10. 

 Chính sách thắt chặt tiền tệ tại các nền kinh tế phát triển đang tác động tức thì đến châu Á, gây ra tình trạng “lạm phát nhập khẩu”, với lạm phát ở hầu hết các nước trong khu vực đều tăng, kết hợp với tác động của giá lương thực tăng, giá xăng dầu tăng. Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, tác động của “lạm phát nhập khẩu”, giá lương thực tăng, giá xăng dầu được kiểm soát tốt hơn nên  lạm phát thấp hơn. Nhưng nhìn chung, lạm phát có xu hướng gia tăng và nguy cơ “lạm phát nhập khẩu” là rất cao. 

 Một trong những tác động khác liên quan đến tỷ giá hối đoái. Hàng loạt  đồng nội tệ mất giá rất mạnh. Trong khi mức độ phá giá của đồng  Việt Nam (VND) so với  USD tương đối thấp hơn (chỉ khoảng 7%). Điều này một mặt giúp Việt Nam ổn định kinh tế vĩ mô, nhưng mặt khác lại  càng tạo thêm lực cản khi gây áp lực ngày càng lớn lên dự trữ ngoại hối. 

  Về xuất khẩu, VND giảm giá tương đối ít  so với  USD nhưng  tăng giá so với hầu hết các đối tác thương mại cạnh tranh  trực tiếp với Việt Nam như Malaysia, Thái Lan và Philippines. 

 Và theo đánh giá của GS. Tiến sĩ Andreas Hauskrecht hiện giảng dạy tại Trường Kinh doanh Kelley thuộc Đại học Indiana Hoa Kỳ, Việt Nam đã làm rất tốt công cuộc chống lạm phát, đặc biệt tâm đắc với các quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Ông cho biết lạm phát, đặc biệt là lạm phát cơ bản, ở Việt Nam đang ở mức thấp và ổn định. 

  Giáo sư Hauskrecht cho biết các cơ quan quản lý của Việt Nam đã ứng phó tốt với các tác động của COVID-19, góp phần kiềm chế lạm phát. Đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội toàn cầu chưa từng có. Mặc dù dịch bệnh đã dần được kiểm soát sau hơn 2 năm, nhưng  vẫn tồn tại những rủi ro đối với người dân, doanh nghiệp và  nền kinh tế toàn cầu, trong đó có vấn đề lạm phát. 

 HÃY THẬN TRỌNG  NHỮNG RỦI RO HIỆN CÓ 

 

  Sherpa cho biết các chính sách của Việt Nam đã hoạt động tốt để hỗ trợ  phục hồi trong quá trình chuyển đổi sau COVID-19. Tuy nhiên,  rủi ro vẫn hiện hữu trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu suy giảm đáng kể, áp lực lạm phát trong nước gia tăng và áp lực lên đồng tiền  Việt Nam ngày càng lớn. Những thách thức này đòi hỏi phải chuyển đổi từ một chính sách hỗ trợ nhiều hơn sang một chính sách thận trọng hơn, tập trung vào việc duy trì sự ổn định của khu vực tài chính và kinh tế vĩ mô. 

  Sherpa cũng đưa ra  khuyến nghị về các chính sách và biện pháp đối với nền kinh tế Việt Nam, nhấn mạnh rằng trong ngắn hạn, các chính sách tiền tệ và tài khóa cần được phối hợp và truyền thông một cách thận trọng. 

  Về  tiền tệ, NHNN cần tiếp tục chú trọng ổn định giá cả sau quyết định nới biên độ tỷ giá. Dự trữ ngoại hối nên được duy trì để đối phó với tình trạng hỗn loạn thị trường có thể trở nên tồi tệ hơn trong tương lai. NHNN nên dựa nhiều hơn vào việc tăng lãi suất trong nước và hạ trần lãi suất tín dụng để kiềm chế lạm phát, ngay cả khi điều đó có nghĩa là tăng trưởng yếu hơn một chút. IMF cũng đã khuyến khích Việt Nam duy trì mục tiêu lạm phát ở mức 4% vào năm 2023 để thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với việc ổn định giá cả. 

 Sherpa nói, chính sách tài khóa  phải linh hoạt khi đối mặt với sự không chắc chắn ngày càng tăng. Việt Nam nên dựa vào các khoản trợ cấp có mục tiêu cho các hộ gia đình và doanh nghiệp dễ bị tổn thương nhất, thay vì tung ra các biện pháp kích thích tài khóa bổ sung trên diện rộng có thể làm tăng lạm phát. Ngoài ra, việc bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính cũng rất quan trọng. Ngoài ra, mức lạm phát cao bất thường ở nhiều nền kinh tế tiên tiến có thể khiến nhiều ngân hàng trung ương tiếp tục tăng mạnh lãi suất. Đáp lại, NHNN có thể gặp áp lực tiếp tục tăng tỷ giá trong nước.  

 Trong khi đó, ông Nguyễn Minh Cường cho rằng Việt Nam nên linh hoạt, tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá và tăng lãi suất ở mức phù hợp. Vấn đề là phải biết Việt Nam sẽ ưu ái công cụ nào trong thời gian tới. 

 Khi Việt Nam thắt chặt chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng và giải ngân đầu tư công chính là xương sống của tăng trưởng. Vấn đề của Việt Nam là dư địa cho chính sách tài khóa cũng như dư địa  cho chính sách tài khóa.  

 Biện pháp giảm lãi suất cho vay trong hai năm 2022-2023 như một phần của kế hoạch phục hồi kinh tế sẽ khó thực hiện, nhưng các biện pháp khác như giảm, giãn thuế luôn phát huy tác dụng. Việt Nam cũng phải tính đến các mục tiêu của  chính sách tài khóa của mình. 

 Việt Nam phải quản lý thị trường ngoại hối và ngân hàng, sau  bài học của cuộc khủng hoảng  2008-2010, để tránh đè nặng lên chính sách tiền tệ.  

 Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là niềm tin của các nhà đầu tư và công dân nước ngoài tiếp tục tăng lên và các biện pháp mà Việt Nam áp dụng vẫn  hiệu quả.  Giáo sư Hauskrecht cho rằng, cho đến khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bắt đầu thay đổi chính sách tiền tệ và cắt giảm lãi suất, Việt Nam sẽ có nhiều dư địa để tung ra nhiều biện pháp kích thích  hơn. . Ông cho biết Việt Nam  cần duy trì lãi suất  ổn định, chính sách tài khóa hợp lý và chính sách tiền tệ thận trọng trong thời gian tới.



Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo