Mặc dù Luật cạnh tranh năm 2004 đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vì đây là luật cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam được ra đời trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn bỡ ngỡ trong nền kinh tế thị trường, nên Luật cạnh tranh năm 2004 không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, Luật canh tranh sửa đổi cần phải được ban hành đề phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, cũng như khắc phục những hạn chế của Luật cạnh tranh năm 2004. Bài viết dưới đây của ACC về Những hạn chế, bất cập của Luật Cạnh tranh 2004 hi vọng đem lại nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.
Những hạn chế, bất cập của Luật Cạnh tranh 2004
I. Phạm vi áp dụng
Cho đến nay, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Các giao dịch kinh doanh – thương mại xuyên biên giới ngày càng phổ biến. Trong số đó, có không ít những giao dịch, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có tính chất xuyên biên giới. Vấn đề đặt ra là liệu Luật cạnh tranh năm 2004 có thể được áp dụng để xử lý các giao dịch này không? Với quy định hiện hành, rất khó khẳng định Luật cạnh tranh năm 2004 có thể được áp dụng đối với các giao dịch hạn chế cạnh tranh bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động hoặc khả năng tác động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường Việt Nam.
II. Đối tượng áp dụng
Điều 2 Luật cạnh tranh năm 2004 chỉ đề cập đến cá nhân, tổ chức kinh doanh và hiệp hội ngành nghề kinh doanh là đối tượng áp dụng. Trong khi đó, trên thực tiễn còn nhiều chủ thể khác cũng cần là đối tượng điều chỉnh của luật cạnh tranh, như các cá nhân, tổ chức có liên quan, các cơ quan nhà nước. Ví dụ, trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền cần thu thập chứng cứ từ các cá nhân, tổ chức không kinh doanh. Ngoài ra, cũng có một số cá nhân, tổ chức mặc dù không kinh doanh nhưng vẫn có thể tham gia thực hiện các hành vi được mô tả trong luật cạnh tranh..
III. Kỹ thuật lập pháp còn có nhiều tồn tại dẫn đến không bao quát hết được các hành vi phản cạnh tranh
Trước hết, một số khái niệm quan trọng trong Luật cạnh tranh năm 2004 mới chỉ mang tính liệt kê mà chưa nêu được các dấu hiệu mang tính bản chất của hành vi. Ví dụ, khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh chỉ mang tính liệt kê và mới chỉ liệt kê được các thỏa thuận theo chiều ngang mà chưa đề cập đến thỏa thuận theo chiều dọc. Bên cạnh đó, các hành vi lạm dụng ví trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền được quy định tại Điều 13, 14 Luật cạnh tranh năm 2004 chỉ có tính chất liệt kê mà chưa xây dựng được các tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Tiếp đến, Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh năm 2004 định nghĩa hành vi hạn chế cạnh tranh là: “hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.” Với cách hiểu này thì tập trung kinh tế cũng được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong khi đó, tập trung kinh tế không phải lúc nào cũng gây ra hậu quả hoặc đe dọa gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh. Hơn nữa, tập trung kinh tế, trong đó chủ yếu là các giao dịch sáp nhập, mua bán doanh nghiệp, liên doanh là những hoạt động thông thường của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Rõ ràng, trong số các giao dịch tập trung kinh tế cũng có những giao dịch làm triệt tiêu hoặc suy giảm cạnh tranh và cần phải được kiểm soát. Tuy nhiên, việc kiểm soát tập trung kinh tế không đồng nghĩa với việc coi là tập trung kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh.
Điều 18 Luật cạnh tranh quy định cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan. Cách tiếp cận này không hợp lý. Bởi vì, về bản chất, chỉ tập trung kinh tế gây nguy hại đến cạnh tranh trên thị trường mới bị cấm, việc tập trung kinh tế dẫn đến thị phần kết hợp chiếm trên 50% chưa chắc đã có nguy hại đến cạnh tranh và ngược lại ngưỡng thị phần kết hợp dưới 50% lại có thể gây nguy hại cho cạnh tranh trên thị trường. Khái niệm tập trung kinh tế trong Luật cạnh tranh năm 2004 mới chỉ mang tính liệt kê mà chưa làm rõ được bản chất của tập trung kinh tế. Về bản chất, luật cạnh tranh quan tâm đến tập trung kinh tế ở khía cạnh thay đổi cấu trúc cạnh tranh trên thị trường và quyền lực thị trường. Vì vậy, yếu tố mang tính quyết định trong tập trung kinh tế mà luật cạnh tranh quan tâm là sự thay đổi về kiểm quyền soát doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh năm 2004 chưa làm rõ được yếu tố này. Ngoài ra, trường hợp miễn trừ đối với hành vi tập trung kinh tế bị cấm được quy định tại Điều 19 Luật cạnh tranh năm 2004 là một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang có nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng một doanh nghiệp có nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản tham gia tập trung kinh tế không đồng nghĩa với việc tập trung kinh tế không có nguy hại cho cạnh tranh trên thị trường. Vì vậy, việc miễn trừ như trên không thực sự hợp lý.
Ngoài ra, liên quan đến xác định vị trí thống lĩnh thị trường, Luật cạnh tranh năm 2004 mới chỉ tập trung vào yếu tố thị phần để xác định vị trí thống lĩnh thị trường mà không xét các yếu tố khác để xác định vị trí thống lĩnh thị trường. Trong khi đó, các yếu tố liên quan khác như công nghệ, rào rản kinh tế - kỹ thuật, sức mạnh của người tiêu dùng,…cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tác động đến cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp.
IV. Thiếu các chế tài xử lý cơ quan nhà nước cản trở cạnh tranh trên thị trường
Điều 6 Luật cạnh tranh năm 2004 có cấm cơ quan nhà nước có hành vi cản trở cạnh tranh trên thị trường. Trên thực tế, đã có nhiều cơ quan nhà nước can thiệp, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Bộ công thương cũng đã vào cuộc yêu cầu các cơ quan này chấm dứt hành vi vi phạm. Tuy nhiên, Điều 6 Luật cạnh tranh năm 2004 chỉ tuyên bố cấm mà thiếu đi các chế tài áp dụng khi xảy ra vi phạm. Vì vậy, hành động của Bộ công thương đối với các hành vi vi phạm này không có tính chất cưỡng chế, răn đe nên không thực sự hiệu quả.
V. Các quy định về độc quyền nhà nước
Điều 15 Luật cạnh tranh năm 2004 đã quy định về độc quyền nhà nước. Tuy nhiên, trong Luật cạnh tranh năm 2004 không có quy định nào đưa ra các tiêu chí mang tính nguyên tắc để xác định những ngành nghề, lĩnh vực duy trì độc quyền nhà nước. Độc quyền nhà nước là cần thiết đối với một số lĩnh vực kinh tế quan trọng vì lợi ích kinh tế chung của quốc gia nhưng độc quyền nhà nước lại đi ngược với tinh thần của luật cạnh tranh. Vì lẽ đó, những tiêu chí mang tính nguyên tắc để xác định lợi ích kinh tế chung, cơ quan có thẩm quyền duy trì độc quyền nhà nước cần được quy định trong Luật cạnh tranh.
VI. Mô hình cơ quan cạnh tranh
Luật cạnh tranh duy trì hai cơ quan cạnh tranh độc lập với nhau là cơ quan quản lý cạnh (Cục quản lý cạnh tranh) và Hội đồng cạnh tranh. Việc duy trì hai cơ quan cạnh tranh nhưng thiếu các quy định hợp lý về sự phối hợp dẫn đến thiếu sự trao đổi thông tin giữa hai cơ quan, việc giải quyết thiếu tập trung làm cho vụ việc cạnh tranh bị kéo dài làm giảm hiệu quả thực thi. Bên cạnh đó, thành viên Hội đồng cạnh tranh hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm cũng ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp của cơ quan này trong xử lý các vụ việc cạnh tranh. Theo Luật cạnh tranh năm 2004, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ công thương. Việc cơ quan quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ công thương gây khó khăn cho cơ quan quản lý cạnh tranh khi phải xử lý các vấn đề liên quan đến các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và các ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
VII. Thực thi pháp luật cạnh tranh
Theo tinh thần của Luật cạnh tranh năm 2004 thì biện pháp thực thi chủ yếu là biện pháp hành chính. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh năm 2004 không đề cập đến thực thi bằng biện pháp dân sự. Điều này dẫn đến cách hiểu là Luật cạnh tranh không thể thực thi bằng biện pháp dân sự.
Trên đây là bài viết mà chúng tôi cung cấp đến Quý bạn đọc về Những hạn chế, bất cập của Luật Cạnh tranh 2004. Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc hay quan tâm đến Những hạn chế, bất cập của Luật Cạnh tranh 2004, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.
Nội dung bài viết:
Bình luận