Khái niệm giám đốc thẩm tái thẩm là gì

phan-biet-so-tham-phuc-tham-giam-doc-tham-va-tai-tham-1

 giám đốc thẩm tái thẩm là gì

1. Tái thẩm là gì?

Xét xử mới là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án,  đương sự không biết  khi Tòa án tuyên bản án đó. hoặc quyết định. 

 2. Giám đốc thẩm là gì?

  Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định tư pháp đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.  

 Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây: 

 

 - Kết luận  bản án, quyết định của Toà án không đúng với các tình tiết khách quan của vụ án; 

 

 - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến có sai sót nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; 

 

 - Có sai sót nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. 

  3. Điểm giống nhau giữa mở lại phiên tòa và xét xử giám đốc thẩm 

 Đối tượng là  quyết định của Toà án đã có hiệu lực  trên thực tế buộc các chủ thể có liên quan phải  chấp hành. Và khi phát hiện  sai phạm thì bị  cơ quan có thẩm quyền phản đối. 

 Hậu quả pháp lý: Khi một bản án hoặc quyết định của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bởi các chủ thể có thẩm quyền thì bản án, quyết định đó không có giá trị pháp lý đối với các đương sự trong vụ án, các chủ thể có liên quan. Bản án, quyết định cũ của Tòa án trước đó sẽ bị hủy, các đương sự các chủ thể trong vụ án sẽ tuân theo quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi bản án được xét lại 

 

 

 Hiệu lực: Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có hiệu lực ngay khi Hội Đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định 

 

 4. Điểm khác nhau giữa tái thẩm và giám đốc thẩm 

 Về tính chất: 

 

 Thủ tục giám đốc thẩm: bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, sự sai sót này có thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào 

 

 

 Thủ tục tái thẩm: là thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị khi phát hiện những tình tiết mới, những tình tiết mới này làm thay đổi nội dung cơ bản của bản án, quyết định của Tòa án. 

  Về căn cứ kháng nghị: 

 

 Giám đốc thẩm: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây. (Căn cứ theo Điều 326 BLTT DS 2015) 

 

 - Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; 

 

 - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật; 

 

 - Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.  Về lý luận, sự khác nhau về tính chất của  căn cứ kháng nghị là cơ sở chủ yếu để hình thành hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật  là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thông thường,  sai sót, vi phạm pháp luật của Tòa án phát sinh từ việc nhận thức, đánh giá không đúng tình tiết, pháp luật do Thẩm phán, Hội thẩm hiểu sai, sơ suất, làm trái pháp luật đối với các chứng cứ, tài liệu của vụ án hoặc  với các quy định của pháp luật. luật. về nội dung và tố tụng dân sự. Ngoài ra, lỗi thực tế của Tòa án có thể do các yếu tố bên ngoài (đương sự hoặc Tòa án không thể biết) như thiếu các tình tiết, tình tiết cần thiết hoặc các tình tiết, sự kiện mà Tòa án không thể biết được. giải quyết vụ án bị làm sai lệch và kết luận không đúng (Cẩm nang luật tố tụng dân sự Việt Nam). 

 

 Tái thẩm: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ sau (theo Điều 352 BLDS 2015): 

 

  1. Mới phát hiện ra những tình tiết quan trọng của vụ án mà khi giải quyết vụ án đương sự  không thể biết được; 

 

  1. Có cơ sở để chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch là không đúng sự thật hoặc có sự can thiệp vào chứng cứ; 

 

  1. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ  hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; 

 

  1. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án, quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ ra quyết định. 

 Xem xét căn cứ thứ ba của thách thức trong sửa đổi, chúng tôi nhận thấy vụ án “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ  hoặc cố ý rút ra kết luận trái pháp luật” không được ghi nhận bằng cách thừa nhận một trong những căn cứ  kháng nghị giám đốc thẩm mà luôn coi đây là căn cứ  kháng nghị giám đốc thẩm. một cơ sở để phản đối việc mở cửa trở lại. Bởi quy định này nhằm  bảo vệ tốt hơn quyền tiếp cận công lý của công dân trong tố tụng dân sự. Trường hợp sai lầm về sự việc của Tòa án do yếu tố ngoại cảnh tác động và trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cố ý làm sai lệch hồ sơ hoặc cố ý kết luận không đúng mà đương sự đã không thể biết được thì quyền khiếu nại của các đương sự đã không thể biết được về các tình tiết mới, tình tiết bị giả mạo hoặc được kết luận không đúng cần phải xác định từ khi họ biết được về các tình tiết, sự kiện đó thay vì kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực. 

  Về thời hạn kháng nghị: 

 

 Giám đốc thẩm: 

 

 “1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.  

 

  1. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị: 

 

 a)Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; 

 

 b)Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.” 

 

 Tái thẩm: 01 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm” (Điều 355 BLTTDS 2015).

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo