Giải quyết tranh chấp môi trường là gì?

Việc lựa chọn hình thức, biện pháp giải quyết xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp môi trường phù hợp trước hết phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp. Bài viết phân tích các nguyên tắc và phương thức giải quyết tranh chấp môi trường theo pháp luật Việt Nam, cụ thể:

9eb197172c5ac5049c4b
Giải quyết tranh chấp môi trường là gì?

1. Khái niệm cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường

Trong khoa học pháp lý, có nhiều định nghĩa khác nhau về giải quyết tranh chấp. Thông thường, giải quyết tranh chấp được hiểu là hoạt động nhằm khắc phục, loại bỏ tranh chấp đã phát sinh bằng một phương thức nhất định, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên xung đột, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội. Theo định nghĩa này, hoạt động giải quyết tranh chấp không chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mà còn nhằm bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội. Thật vậy, một tranh chấp mặc dù là một hiện tượng khách quan, thoát khỏi sự kiểm soát của xã hội và nhà nước, nhưng khi nó phát sinh, nó đã không được các bên, xã hội và nhà nước giải quyết kịp thời. nhiều tác động xấu đến xã hội như: làm căng thẳng các mối quan hệ, làm tăng chi phí vật chất cho xã hội, đe dọa an ninh trật tự pháp luật... Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc dung hòa các lợi ích đối lập giữa các bên và duy trì sự ổn định trong các quan hệ xã hội. Ngoài ra, giải quyết tranh chấp còn được hiểu là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng, khôi phục lại sự cân bằng về lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. .
“Cơ chế giải quyết tranh chấp” được tiếp cận ở một góc độ khác. Xuất phát từ nghĩa chung của thuật ngữ “cơ chế” trong khoa học xã hội, đó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành hệ thống để hệ thống đó vận hành, cơ chế giải quyết tranh chấp không chỉ việc giải quyết tranh chấp dưới hình thức một phương pháp hay một mục tiêu cụ thể, nhưng rộng hơn, bao quát hơn, nó chỉ sự tương tác giữa tất cả các yếu tố chi phối (tác động) đến quá trình điều hòa các xung đột lợi ích trong xã hội. Nói cách khác, cơ chế giải quyết tranh chấp giúp giải quyết tranh chấp từ góc độ hệ thống. Với cách tiếp cận này, cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung và cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường nói riêng có thể được định nghĩa là một hệ thống thống nhất gồm các phương tiện pháp lý cụ thể để thực hiện việc giải quyết tranh chấp. giải quyết tranh chấp giữa các bên tránh tranh chấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên và bảo vệ trật tự xã hội. Các biện pháp pháp lý cụ thể để giải quyết tranh chấp môi trường bao gồm:

1) Các nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là khẩu hiệu;

2) Hệ thống pháp luật thực tiễn là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp;

3) Tổ chức bộ máy vận hành và yếu tố con người thực thi pháp luật... Mỗi yếu tố đều có nhiệm vụ, vị trí, vai trò nhất định trong quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành một thể thống nhất , có khả năng giải quyết xung đột hiệu quả.

2. Nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp môi trường

Trong cơ chế giải quyết tranh chấp môi trường, các nguyên tắc cơ bản luôn đóng vai trò quan trọng, định hướng, định hướng và áp dụng cho tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp. Những nguyên tắc này là:

- Nguyên tắc can thiệp của công chúng

Việc giải quyết tranh chấp môi trường không chỉ là ý chí của các bên tranh chấp mà còn là trách nhiệm của Nhà nước. Chức năng quản lý xã hội của nhà nước và nghĩa vụ cung cấp phúc lợi công cộng không “cho phép” công chúng đứng ngoài các quan hệ xã hội mâu thuẫn sâu sắc này. Nói cách khác, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sự can thiệp của công chúng vào giải quyết tranh chấp cần được xem như một loại nghĩa vụ công, hay còn gọi là sự can thiệp của công một cách tự nhiên.

Tuy nhiên, để đánh giá đúng mức tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước, coi việc bảo vệ môi trường nói chung, giải quyết tranh chấp môi trường nói riêng là trách nhiệm duy nhất của Nhà nước, cần quy định rõ mức độ phạm vi (hoặc giới hạn). ) về sự can thiệp của công chúng vào lĩnh vực này. Thực tiễn cho thấy, muốn tuyệt đối hóa vai trò của Nhà nước, áp dụng một cách cứng nhắc các phương thức quản lý hành chính như mệnh lệnh, cưỡng chế... đã bộc lộ nhiều bất cập, mà hậu quả rõ nét nhất là sự triệt tiêu quyền tự chủ của người dân trong việc tìm kiếm các giải pháp thích hợp để bảo vệ môi trường và giải quyết các xung đột. Trong nhiều trường hợp, điều này thậm chí còn đẩy các đối tượng sử dụng, khai thác các thành phần của môi trường vào tình thế thích ứng, trốn tránh trách nhiệm bảo vệ môi trường. Ngày nay, cách tiếp cận bảo vệ môi trường nói chung, giải quyết tranh chấp môi trường nói riêng theo nghĩa coi sự can thiệp của cơ quan công quyền là yếu tố tất yếu, nhưng chỉ nên coi đó là giải pháp cuối cùng, dần dần ngày càng trở nên phổ biến. có lợi thế. Xu hướng “kinh tế hóa” hoạt động quản lý và BVMT bằng các phương pháp: phân tích chi phí - cơ hội, phân tích chi phí - lợi ích, với sự tham gia nhiều hơn của các yếu tố thị trường. Môi trường đã tạo điều kiện cho các nhà khai thác, sử dụng tài nguyên và môi trường chủ động hơn trong việc tính toán, cân đối lợi ích kinh tế với chi phí bảo vệ và phục hồi môi trường. Dưới góc độ giải quyết tranh chấp, việc sử dụng các công cụ, phương thức kinh tế sẽ giúp các bên xung đột có điều kiện lựa chọn phương thức thương lượng, hòa giải với ưu điểm vốn có là tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc, nguồn lực và công sức của các bên , cũng như giảm đáng kể các hiệu ứng xã hội. chi phí.

- Nguyên tắc phòng ngừa

Nguyên tắc phòng ngừa đặc biệt có ý nghĩa trong việc giải quyết những vụ kiện đòi chấm dứt các mối nguy hiểm tiềm tàng đối vói môi trường và sức khoẻ cộng đồng từ các hoạt động phát triển, nhất là các dự án có quy mô lớn, như: dự án xây dựng nhà máy hoá chất, các công trình thuỷ điện, nhiệt điện, điện nguyên tử, công trình Xử lý chất thải, đường giao thông... Tiền đề của nguyên tắc này là nếu có những điều không chắc chắn hoặc không rõ về bản chất hoặc mức độ, quy mồ của sự nguy hại đến môi trường thì người ra quyết định cần hết sức thận trọng. Hay nói khác đi, trong trường hợp này, quan điểm phát triển bền vững cần được tôn trọng, cần phải cân nhắc giữa “cái được, cái mất” (giữa chi phí và lợi ích) để các bên có thể đi đến thống nhất các phương án loại trừ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất tác động xấu đến môi trường từ các hoạt động phát triển.
Để thực hiện đầy đủ nguyên tắc phòng ngừa trong giải quyết xung đột, cần thiết phải tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường. Đây được xem là công cụ vừa mang tính pháp lý vừa mang tính kĩ thuật để giải quyết ttanh chấp, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của hoạt động đánh giá tác động môi trường trong giải quyết các tranh chấp môi trường thể hiện ở chỗ thông hoạt động này cơ quan tài phán sẽ có cơ sở để xem xét một số vấn đề như: các bên đã cân nhắc đến tất cả các yếu tố có liên quan đến môi trường chưa? Các tác động môi trường tiêu cực của các hoạt động phát triển có được đánh giá và lên kế hoạch trước không? Các bên liên quan cũng như các cơ quan có thẩm quyền có nhận thức đầy đủ về những rủi ro nội tại mà các hoạt động phát triển có thể gây ra cho môi trường hay không?... Nếu câu trả lời là không thì nguyên tắc biện pháp phòng ngừa sẽ được áp dụng để buộc các bên phải thực hiện. tiến hành một cuộc điều tra đầy đủ và nghiêm túc. xem xét, đánh giá các vấn đề đặt ra.

- Nguyên tắc phối hợp, hợp tác

Để duy trì mối quan hệ lâu dài giữa các bên tranh chấp trong việc cùng nhau tìm kiếm các giải pháp khắc phục và cải thiện môi trường, cần áp dụng nguyên tắc phối hợp và hợp tác giữa các bên khi tiến hành giải quyết tranh chấp . Ở góc độ xã hội, đây được coi là cách tốt nhất để tổng hợp mọi nguồn lực xã hội nhằm khắc phục và nâng cao chất lượng môi trường sống chung của người dân. Nguyên tắc phối hợp và hợp tác có thể hiểu là các hoạt động giải quyết tranh chấp nhằm kết nối các bên liên quan. Họ có cơ hội đối thoại trực tiếp với nhau, thông tin đầy đủ cho nhau và cùng xây dựng các cam kết với sự đồng thuận xã hội, cùng phân định trách nhiệm, cùng chia sẻ lợi ích và tìm được tiếng nói chung để ngăn ngừa rủi ro các thiệt hại về môi trường để đạt được sự phát triển bền vững. phát triển.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá

Nội dung của nguyên tắc là xác định “cái giá” phải trả cho những kẻ gây ô nhiễm môi trường. “Cái giá” này là: 1) Phải thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường; và 2) Bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại về môi trường, tính mạng, sức khỏe và tài sản (nếu có). Với nội dung này, nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá phát huy hết ý nghĩa của nó trong việc giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại về môi trường, con người và vật chất do ô nhiễm môi trường gây ra. - Nguyên tắc tham vấn chuyên gia

Để xác định một cách khoa học thiệt hại đối với môi trường, tính mạng, sức khỏe và tài sản của nạn nhân trong tranh chấp môi trường, cần sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia. Bằng chứng giúp thông báo nội dung của các thử nghiệm môi trường phải là kết quả làm việc tập thể của các chuyên gia, nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, y học, sinh học, hóa học, vật lý, quản lý và bảo vệ môi trường... Các chuyên gia phải dựa trên cơ sở kỹ thuật. phương tiện đo đạc, kiểm nghiệm mẫu để từ đó rút ra kết luận khách quan, trung thực về mối quan hệ nhân quả, về mức độ thiệt hại. Chỉ khi đó, dữ liệu mới trở thành cơ sở khoa học và pháp lý giúp các bên tranh chấp cũng như cơ quan có thẩm quyền đánh giá, dự báo và đưa ra kết luận toàn diện về bản chất, mức độ và ảnh hưởng (chủ yếu) đối với các vấn đề môi trường, nhằm đưa ra các nhận định đảm bảo chính xác, khách quan.

3. Phương pháp giải quyết tranh chấp môi trường

Việc giải quyết tranh chấp môi trường được thực hiện theo các phương thức sau đây:

3.1 Đàm phán

Cũng như các giải quyết tranh chấp khác, thương lượng luôn được coi là một hình thức giải quyết tranh chấp môi trường quan trọng vì tính đơn giản và hiệu quả của nó.
"Các cuộc thương lượng và đàm phán hợp lý và đúng đắn chắc chắn sẽ dẫn đến một thỏa thuận hợp lý làm hài lòng tất cả các bên."

Đây là cơ hội tốt nhất để các bên thu thập thêm thông tin, xem xét diễn biến vụ việc, đánh giá đúng bản chất vụ việc, làm sáng tỏ những hiểu lầm, vướng mắc để cùng nhau tìm ra giải pháp tối ưu với chi phí thấp nhất về thời gian, năng lượng và tài chính.
So với thương lượng để giải quyết các tranh chấp khác, thương lượng trong giải quyết tranh chấp môi trường có một đặc thù là thường diễn ra giữa các chủ thể đại diện. Do số lượng người tham gia trong mỗi vụ tranh chấp môi trường quá lớn (có trường hợp con số lên tới hàng nghìn cá nhân, hàng chục tổ chức) nên quá trình thương lượng không thể diễn ra trực tiếp giữa tất cả những người liên quan. Tùy theo các mối quan hệ mâu thuẫn sẽ có những biểu hiện cụ thể sau:

Đại diện cho lợi ích công cộng, lợi ích xã hội bị coi thường. Loại đại diện này thường xuất hiện trong các tranh chấp môi trường có yếu tố nước ngoài, tranh chấp bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường, v.v. Khác với vai trò của người đại diện thông thường - chỉ thay thế Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, chủ thể đại diện còn thực hiện quyền khởi kiện nếu quá trình thương lượng, hòa giải không thành công.
Đại diện cho các nhóm lợi ích được chia sẻ. Trong trường hợp này, người đại diện thường được chỉ định bởi các bên có cùng lợi ích và yêu cầu chung. Họ nói chung là các chuyên gia (bao gồm chuyên gia kinh tế, chuyên gia kỹ thuật, luật sư…), các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp, người quản lý khu dân cư, tổ dân phố…, thay mặt họ đại diện cho các nhóm người có cùng lợi ích để thương lượng nhằm giải quyết các vấn đề môi trường. xung đột. Cũng chính vì đặc điểm này mà trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, khái niệm “vụ kiện tập thể” được thừa nhận rộng rãi.

Đối với bên bị hại, tùy từng trường hợp, đối tượng đàm phán sẽ là người trực tiếp thực hiện hành vi gây hại cho môi trường, đại diện chủ sở hữu hoặc các cơ quan bảo hiểm trong nước và quốc tế. .

3.2 Hòa giải

Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp được tiến hành khi tranh chấp đã hoàn toàn phát sinh và các bên nhận thấy việc tự thương lượng không mang lại kết quả nhưng vẫn muốn tự mình đạt được thỏa thuận.
Hòa giải tranh chấp là quyền của các bên. Pháp luật khuyến khích các bên có xung đột áp dụng phương thức này. Đạo luật Tài nguyên Nước 2012, Đạo luật Đất đai 2013, quy định:

“Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp liên quan đến tài nguyên nước. Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức hòa giải các tranh chấp về tài nguyên nước trên địa bàn theo yêu cầu của các bên tranh chấp”; “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”.
Trong hòa giải tranh chấp môi trường, hòa giải viên

thường được tổ chức thành tập thể gồm: đại diện chính quyền địa phương, cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, đơn vị sự nghiệp công lập, đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức Phi chính phủ (NGO), luật sư... Vì tranh tụng môi trường liên quan đến nhiều lợi ích, ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của cuộc sống, đòi hỏi kiến ​​thức chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực, chỉ thông qua mô hình này, các vấn đề liên quan mới được xem xét một cách khách quan và toàn cầu. Ngoài ra, việc tổ chức các tổ hòa giải còn góp phần cân bằng “thế” của các bên liên quan vốn luôn không cân xứng trong mỗi tranh chấp môi trường.

So với thương lượng, hòa giải có mức độ thành công cao hơn do được hỗ trợ bởi những hòa giải viên có kiến ​​thức chuyên môn nhất định. Tuy nhiên, khó khăn trong hòa giải tranh chấp môi trường bắt nguồn từ tính chất đa thành phần của các nhóm hòa giải. Tính đa dạng cũng có nghĩa là sẽ có nhiều ý kiến, quan điểm và khả năng tiếp cận các sở thích khác nhau. Nếu việc hòa giải không được tổ chức một cách khoa học, hợp lý thì giữa chính các hòa giải viên có thể nảy sinh những bất đồng. Ngoài ra, một trong những thành phần chính của nhóm thanh tra môi trường là chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, mặc dù chủ thể này thường đóng vai trò là đại diện cho các nạn nhân của các vụ kiện môi trường. Đa nguyên về vai trò chủ thể, sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ là điều khó tránh khỏi.
Đối với việc hòa giải trước tòa án, các quan điểm vẫn còn khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng giải quyết tranh chấp môi trường chỉ là giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại về người và tài sản của cá nhân, tổ chức nên hòa giải luôn phải được tiến hành tại tòa án như đối với các tranh chấp dân sự khác. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng, do nhà nước là đại diện chủ sở hữu tài nguyên và môi trường nên việc gây hại cho môi trường là gây hại cho nhà nước. Trong những trường hợp này, theo quy định của pháp luật hiện hành, tòa án không tiến hành hòa giải.

3.3 Giải quyết tranh chấp với cơ quan có thẩm quyền

Khác với lĩnh vực dân sự, kinh tế hay lao động, trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, tranh chấp có thể được giải quyết thông qua thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp.
Nếu như ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, thủ tục hành chính vẫn được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong quá trình giải quyết tranh chấp môi trường là do họ nhận thức được chủ thể của tranh chấp môi trường là môi trường luôn gắn bó chặt chẽ với lợi ích công cộng được Nhà nước bảo vệ (thông qua cơ quan quản lý nhà nước về môi trường). Các chủ thể này phải chịu trách nhiệm chính thay mặt nhà nước xử lý các hành vi gây hại cho môi trường và giải quyết xung đột lợi ích về môi trường giữa các bên. Ngoài ra, họ cũng cho rằng thủ tục hành chính thường đáp ứng yêu cầu giải quyết nhanh chóng các tranh chấp môi trường, ngăn ngừa những hậu quả xấu có thể gây ra đối với môi trường, đồng thời tuân thủ các thủ tục pháp luật. Vụ việc có thể kéo dài và các biện pháp khôi phục chất lượng môi trường bị hủy hoại khó có thể thực hiện ngay... Ở Việt Nam, giải quyết tranh chấp môi trường là một trong chín nội dung quản lý nhà nước về môi trường. Bộ máy cơ quan quản lý môi trường tham gia giải quyết tranh chấp môi trường được tổ chức ở cả 4 cấp: cơ quan chịu trách nhiệm địa chính của quận và xã; các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; sở Tài nguyên và Môi trường; cục bảo vệ môi trường.

Mặc dù thủ tục hành chính khá phổ biến trong giải quyết tranh chấp môi trường nhưng điều này không có nghĩa là thủ tục pháp lý không được coi trọng. Xuất phát từ chế độ sở hữu toàn bộ về tài nguyên thiên nhiên (đồng thời với các yếu tố môi trường), quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức, cá nhân thực chất là quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu và những người khai thác, tác động chung đến các đối tượng. Khi các thành phần môi trường bị tổn hại, Nhà nước chỉ với tư cách là người đại diện cho lợi ích công cộng để yêu cầu khôi phục lại chất lượng môi trường đã bị tổn hại. Trong trường hợp này, quan hệ giữa nhà nước và bên gây hại đến môi trường chỉ là quan hệ giữa hai bên, trong đó nhà nước là đại diện cho bên bị hại. Và khi hai bên không tìm được tiếng nói chung thì tòa án sẽ là cơ quan có thẩm quyền quyết định. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hệ thống tòa án môi trường ở một số quốc gia là một ví dụ cho thấy xã hội cần phải giải quyết các tranh chấp môi trường thông qua thủ tục tư pháp. Có thể hình dung hai “mô hình” tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường như sau:

Hệ thống tòa án thông thường (trực tiếp là tòa án dân sự). Thông thường, các tòa án cấp tỉnh hoặc khu vực sẽ giải quyết các vụ việc về môi trường. Tòa phúc thẩm tối cao có thẩm quyền cuối cùng trong các vụ việc về môi trường. Các quốc gia hiện đang thiết lập mô hình này là: Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Malaysia, Philippines, Chile, Kenya, Canada (một số bang được chọn)...

Hệ thống tòa án môi trường nằm bên cạnh hệ thống tòa án dân sự và hình sự (có thể coi là một loại tòa án đặc biệt). Theo mô hình này, tòa môi trường có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ việc liên quan đến khai thác, sử dụng và tác động của các yếu tố môi trường (không phân biệt vụ việc đó là dân sự hay phi dân sự). Tòa án môi trường thường được tổ chức theo vùng, đặc thù là những vùng có độ “nhạy cảm” cao về môi trường, vùng có nhiều khu vực kinh tế, công nghiệp, dịch vụ. Các quốc gia tiêu biểu cho mô hình này là: New Zealand, Canada (Alberta, Ontaro), Đan Mạch, Thụy Điển, Cộng hòa Ireland, Hoa Kỳ (Vermont), Nam Phi (South Africa)... tòa án ở từng đơn vị bang. Đây được xem là bước phát triển mạnh mẽ trong ý thức bảo vệ môi trường của các quốc gia. Điểm hợp lý của mô hình tòa môi trường là cho phép cơ quan tư pháp xem xét, giải quyết các vụ việc môi trường ở mức độ chuyên môn cao nhất, không phân biệt tính chất dân sự hay phi dân sự, sở hữu hay không sở hữu trong các quan hệ đối địch. Đặc biệt, nó làm cho nó khắc phục được tình trạng phụ thuộc vào các nguyên tắc, thiết chế pháp luật truyền thống đã bộc lộ ngày càng rõ nét những bất cập trước yêu cầu mới. Ở Việt Nam, theo pháp luật hiện hành, thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp phổ biến nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được xác định bởi Luật tố tụng dân sự. Theo đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp được xác định theo đối tượng tranh chấp là: Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm vụ án mà các bên đương sự có tài sản hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy thác cho các bên tư pháp giải quyết. văn phòng nước ngoài, tòa án nước ngoài. Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án còn lại. Về phạm vi lãnh thổ, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở đăng ký (nếu bị đơn là tổ chức). ). ). Các bên đương sự còn có thể thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn để giải quyết. Nếu là tranh chấp về khắc phục thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc hoặc nơi xảy ra sự kiện thiệt hại giải quyết.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng, việc xác định thẩm quyền của tòa án trên cơ sở tiêu chí đối tượng hay lãnh thổ nhìn chung chỉ phù hợp với các tranh chấp có tính chất đơn giản, trong một khu vực hạn chế, giá trị tranh chấp không cao. . . Đối với các tranh chấp về môi trường có tính chất phức tạp, có giá trị kiện tụng cao, phát sinh giữa các nhóm người ở các địa phương khác nhau (đặc biệt trong trường hợp có nhiều người cùng gây ô nhiễm môi trường gây thiệt hại đến môi trường), tính mạng, sức khỏe và tài sản của dân cư. cộng đồng ở nhiều địa phương khác) thì sự phân bổ thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo lãnh thổ, theo nơi cư trú, nơi xảy ra thiệt hại là như nhau. Điều này dẫn đến yêu cầu cần có những quy định phù hợp hơn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp môi trường.

4. Trình tự giải quyết tranh chấp môi trường

Tuyệt đại đa số cấc vụ tranh chấp môi trường trong thời gian qua tại Việt Nam được giải quyết ở giai đoạn thương lượng, hoà giải với sự tham gia của các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan quản lí nhà nước về môi trường (thanh tra môi trường) ở các mức độ khác nhau. Các chủ thể này trực tiếp thụ lí các đơn thư khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại về môi trường và tiến hành xem xét vụ việc theo trình tự sau:

Bước 1: Kiểm tra, xác minh những nội dung được phản ánh trong các đơn thư khiếu kiện.
Việc kiểm tta, xác minh, kết luận về mức độ chính xác trong nội dung các đơn thư khiếu kiện cũng như xác định nguyên nhân gây thiệt hại là bước đầu tiên, quan trọng, là cơ sở cho việc xem xét các tình tiết cụ thể của vụ tranh chấp. Do đặc thù của dạng tranh chấp này là không phải trong mọi trường hợp bên bị hại đều xác định được đúng nguyên nhân gây thiệt hại, người gây hại nên trong đơn thư thường chỉ nêu chung chung tình trạng vi phạm pháp luật, mô tả sơ lược tình trạng môi trường bị ô nhiễm và ước tính thiệt hại. Do vậy, việc kiểm tra, xác minh về mức độ chính xác trong nội dung các đơn thư khiếu kiện thường được các cơ quan chức năng tiến hành bằng các biện pháp mang tính nghiệp vụ, gồm:

1) Lấy mẫu các thành phần môi trường bị ô nhiễm, phân tích các đậc tính lí học, hoá học và sinh học của các yếu tố môi trường;

2) Kiểm tra tình hình quan trắc và kiểm soát ô nhiễm trong khu vực;

3) Đánh giá hiện trạng môi trường nơi ô nhiễm xảy ra, xác định nguồn gây ô nhiễm;

4) Chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm và thiệt hại vật chất về môi trường... Sau đó đối chiếu dữ liệu thu thập được với hồ sơ thiết kế, với hệ thống tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam… để đi đến kết luận: bên làm đơn đúng (hay sai) sự thật.
Cũng do tính chất phức tạp của công việc nêu trên nên quá trình kiểm tra, xác minh, kết luận nội dung khiếu nại không chỉ do một hoặc một số ít người đảm nhận mà thường được thực hiện bởi các đoàn thanh tra chuyên ngành về môi trường. hoặc ngành, đoàn công tác hoặc tổ chức ở các hội nghị, như: hội nghị tham quan thực tế, hội nghị quân dân y mở rộng... Thành phần chủ yếu của các đoàn công tác dưới đây bao gồm: thanh tra môi trường, đại diện chính quyền các cấp tại địa phương nơi môi trường bị ô nhiễm, nơi phát sinh nguồn gây ô nhiễm (trường hợp nguồn gây ô nhiễm không cùng địa bàn nơi xảy ra ô nhiễm môi trường), đại diện cơ quan chuyên môn thuộc lĩnh vực nông nghiệp, bảo vệ thực vật, thống kê, giá cả, đại diện của bên bị hại (trường hợp có nhiều người bị thiệt hại), đại diện của bên bị hại (trường hợp các bên bị hại là pháp nhân, tổ chức)...

Trên cơ sở những phát hiện về nguyên nhân gây ô nhiễm, đối tượng gây ô nhiễm... Các cơ quan có thẩm quyền một mặt áp dụng các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường để xử phạt người gây ô nhiễm, buộc họ phải thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Mặt khác, giúp bên bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra.
Bước 2: Yêu cầu bên bị thiệt hại thu thập chứng cứ về việc bồi thường thiệt hại và xác định yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Việc các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn bên bị vi phạm thu thập chứng cứ về thiệt hại và xét xử yêu cầu bồi thường cũng là một đặc điểm nổi bật của quá trình xem xét và giải quyết vấn đề môi trường. Cũng như tố tụng trong các lĩnh vực khác, việc thu thập chứng cứ bồi thường thiệt hại chủ yếu do các bên tự tiến hành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực môi trường, thiệt hại gây ra có giá trị lớn, khó xác định nên bên bị thiệt hại thường không thể cung cấp dữ liệu chứng minh nếu không có sự trợ giúp của cơ quan chuyên môn. Thông thường, các tổ chức chuyên môn hướng dẫn bên bị thiệt hại áp dụng các phương pháp khoa học đã được kiểm chứng để tính toán thiệt hại về người và tài sản do ô nhiễm môi trường gây ra.
Một trong những phương pháp thường được sử dụng để tính thiệt hại về tài sản là phương pháp so sánh đối chiếu. (Ngoài ra, các nhà khoa học môi trường và kinh tế môi trường còn xây dựng các phương pháp khác để tính toán thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra như: phương pháp định giá trực tiếp và đánh giá gián tiếp...). Phương pháp này thường được sử dụng để tính toán tổng thiệt hại về cây trồng, vật nuôi trong khu vực bị ô nhiễm, đặc biệt trong trường hợp ô nhiễm có phạm vi rộng, thiệt hại xảy ra cho nhiều tổ chức, cá nhân và không tính toán chi tiết thiệt hại cho từng người. Số lượng chính được so sánh là sản lượng nông nghiệp và động vật trung bình hàng năm. Những dữ liệu này được thu thập từ các cơ quan thống kê địa phương, hội đồng hợp tác xã hoặc thu hoạch đại diện... Phương tiện so sánh là:

1) So sánh sản lượng cây trồng, vật nuôi của năm bị ô nhiễm môi trường với các năm trước (để đảm bảo tính chính xác, khách quan về thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra, cần phải 'loại bỏ trước sự sụt giảm năng suất do các nguyên nhân khác các yếu tố gây hại như thời tiết, sâu bệnh...);

2) So sánh giữa sản xuất cây trồng, vật nuôi trong vùng ô nhiễm và ngoài vùng ô nhiễm (để đảm bảo tính chính xác cần có điều kiện bắt buộc là giữa các vùng phải có sự tương đồng về các yếu tố (khí hậu, thổ nhưỡng…).
Đối với thiệt hại về tính mạng và sức khỏe do ô nhiễm môi trường, cách tính phổ biến là thông qua chi phí khám bệnh, chữa bệnh do các cơ sở y tế cung cấp. Tùy theo mức độ ô nhiễm và thời gian tác động do ô nhiễm môi trường gây ra, tổn hại đến sức khỏe con người có thể biểu hiện dưới các dạng: bệnh mãn tính (rối loạn tiêu hóa do thường xuyên sử dụng các sản phẩm thuốc lá), nước có chứa xyanua hoặc vi khuẩn coliforms…. ), bệnh cấp tính (viêm phổi cấp do chất độc hóa học), tử vong (do nhiễm phóng xạ)…, trong đó bệnh mạn tính chiếm tỷ lệ cao.
So với cách tính thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ được quy định trong Điều 612, Bộ luật dân sự năm 2005 (Bộ luật dân sự năm 2015) thì việc tính thiệt hại về tài sản trong lĩnh vực bào vệ môi trường mới chỉ dừng ờ móc xác định giá trị tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng mà chưa xác định những thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng khai thác tài sản; chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Tương tự, thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm mới chỉ được tính thông qua những chi phí hợp lí cho việc cứu chữa bệnh, mà chưa tính đến những chi phí cho việc bồi dưỡng, phục hồi sửc khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút hoặc các khoản thu nhập thực tế bị mất...

Bước 3: Tham gia giải quyết ttanh chấp, góp phần điều hoà lợi ích giữa các bên xung đột.
Việc các cơ quan quản lí nhà nước về môi trường tham gia giải quyết hầu hết các vụ ttanh chấp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên tại Việt Nam ưong thời gian qua là một bằng chứng chứng minh sự khác biệt cơ bản với thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại, lao động. Vai trò của các cấp chính quyền và cơ quan quản lí nhà nước về môi trường trong hoạt động này thể hiện ở chỗ là họ vừa với tư cách là cơ quan chuyên môn xem xét, xác định nguyên nhân gây ô nhiễm, các mức độ ô nhiễm, mức độ thiệt hại, vừa là cơ quan đầu mối trong việc đánh giá chứng cứ pháp lý, nêu cơ sở giải quyết và phân tích các mối quan hệ xã hội đan xen, tạo cơ hội cho các bên tranh chấp tự giải quyết các xung đột mà không cần đưa vụ việc ra toà án giải quyết. Quá trình giải quyết tranh chấp thường được tổ chức dưới hình thức “họp” hoặc “hội nghị” với phương châm: thận trọng, linh hoạt, hiệu quả và không nhằm mục đích duy trì quan hệ lâu dài giữa các cơ sở kinh doanh gây thiệt hại cho cộng đồng địa phương để bảo vệ môi trường chung.
Các phương án dung hòa các lợi ích xung đột cũng được xây dựng và triển khai linh hoạt, bao gồm phương án đền bù vật chất cho từng đối tượng bị ảnh hưởng. Tùy theo tính chất cụ thể của từng tranh chấp, cơ quan giải quyết tranh chấp thường đề xuất các bên áp dụng một hoặc nhiều phương án bồi thường thiệt hại như sau:

1) Bồi thường mọi thiệt hại thực tế. Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp phạm vi ô nhiễm hẹp, thiệt hại chỉ ảnh hưởng đến một số người, giá trị thiệt hại không lớn và dễ xác định.
2) Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định tỷ lệ giữa tổng giá trị thiệt hại được bồi thường và giá trị thực của tổng thiệt hại. Phương án này được áp dụng chung trong trường hợp tổng giá trị thiệt hại được tính trên cơ sở thiệt hại tổng hợp của từng cá nhân, tổ chức và người gây thiệt hại thực hiện hành vi gây ô nhiễm môi trường do lỗi vô ý. quá lớn so với khả năng tài chính của họ. Người gây thiệt hại được giảm mức bồi thường nhưng số lượng người bị thiệt hại quá nhiều nên không tính được mức giảm cụ thể cho từng người.
3) Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định mức độ thiệt hại. Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp có sự khác biệt lớn về mức độ thiệt hại giữa người bị thiệt hại và bên bị thiệt hại đã phân loại mức độ thiệt hại thành các mức khác nhau. Người bị thiệt hại ở mức nào thì được bồi thường ở mức đó. 4) Bồi thường thiệt hại trên cơ sở xác định mức độ thiệt hại trung bình. Phương án này được áp dụng nếu không có sự khác biệt lớn giữa các mức độ thiệt hại. Tất cả các nạn nhân bị thiệt hại sẽ nhận được số tiền bồi thường như nhau.
5) Bồi thường thiệt hại bằng cách đầu tư vào các công trình công cộng, phúc lợi của cộng đồng dân cư như công trình thủy lợi, bệnh viện, đường giao thông... Phương án này thường được áp dụng trong trường hợp ô nhiễm có phạm vi rộng, gây thiệt hại cho nhiều người, khó xác định mức độ thiệt hại của từng đối tượng cụ thể. Cụ thể đối với tranh chấp bồi thường thiệt hại về môi trường do sự cố tràn dầu, cơ quan quản lý nhà nước về môi trường tại địa phương sẽ làm đại diện cho bên bị thiệt hại để thực hiện các công việc sau: Yêu cầu bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường. Đặc biệt:

- Cơ quan quản lý môi trường địa phương phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, thu thập đầy đủ hồ sơ mẫu vật liên quan và khiếu nại của chính quyền địa phương và người dân về tác động của sự cố.
- Ghi lại những bằng chứng ban đầu về sự cố, cụ thể là những thiệt hại đầu tiên nhìn thấy được như chết người, cháy, nổ...
- Thu thập thông tin về chủ phương tiện tại nơi xảy ra tai nạn, đặc biệt là thông tin về bảo hiểm, về việc tuân thủ các điều ước quốc tế về môi trường...
- Tổ chức các đoàn chuyên gia khoa học điều tra thực địa nhằm đánh giá mức độ, mức độ ô nhiễm, mức độ thiệt hại, suy thoái môi trường, sinh thái, thiệt hại kinh tế cho các tổ chức, cá nhân hiện tại và tương lai... Các tranh chấp mà một hoặc các bên là người nước ngoài về bảo vệ môi trường trên lãnh thổ Việt Nam sẽ được giải quyết theo pháp luật Việt Nam, có tính đến pháp luật và tập quán quốc tế.
Các tranh chấp giữa Việt Nam và các nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sẽ được giải quyết trên cơ sở thương lượng, tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo