Giải pháp an sinh xã hội

1.Thực trạng đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam 

  Qua hơn 35 năm đổi mới và phát triển đất nước, Việt Nam đã cơ bản xây dựng được một hệ thống an sinh xã hội (ASXH) đồng bộ, nhất là các chính sách tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người dân; bảo hiểm xã hội (BHXH) bù đắp phần thu nhập bị suy giảm khi đau ốm, tai nạn lao động, tuổi già; trợ giúp xã hội đột xuất và thường xuyên; cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, chính sách ưu đãi đối với người có công... 

  Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về “Một số vấn đề về CSXH giai đoạn 2012 - 2020” nêu rõ, việc bảo đảm ASXH với một cấu trúc bao gồm: Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; BHXH; Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và bảo đảm thông tin). 

  Mô hình ASXH của Việt Nam đã thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ, đem lại những thành quả ASXH đáng khích lệ, được thế giới công nhận, như thành tích xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, y tế... Việt Nam đã đạt được thành tựu ấn tượng trong hỗ trợ tạo việc làm và giảm nghèo. 

  Cùng với đà tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài đạt kết quả tốt nên hằng năm hàng triệu lao động có việc làm. Giảm nghèo, tạo việc làm được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, được  cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quan tâm. Tỷ lệ thất nghiệp  duy trì ở mức  2% - 3% (Bùi Văn Huyên (2019).  

 Phát huy  rõ nét vai trò là mạng lưới an sinh xã hội quan trọng trong những năm qua, BHYT, BHXH đã đồng hành, hỗ trợ người dân vượt qua  rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động... 

  Cụ thể,  BHYT đã góp phần giảm chi phí từ tiền túi của hộ gia đình cho các dịch vụ y tế, từ đó góp phần tạo  sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, đặc biệt  đối với các nhóm  yếu thế trong xã hội. Quả thực, những năm qua, việc bảo đảm  quyền lợi khám, chữa bệnh cho người có thẻ BHYT  đạt  nhiều kết quả tích cực. Mỗi năm, có hơn 100 triệu  bệnh nhân được chuyển quyền lợi từ Medicare. Trong đó, có nhiều trường hợp được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám, chữa bệnh lên đến hàng tỷ đồng. Riêng trong hai năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của  dịch COVID-19, Quỹ BHYT và ngân sách nhà nước đã đóng góp đáng kể cho công tác phòng, chống dịch COVID-19; qua đó tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm của chính sách BHYT trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia.  

 Nhờ tính ưu việt của lưới an toàn BHXH nên số người tham gia BHXH tăng nhanh theo hướng năm sau cao hơn năm trước. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, tính đến hết tháng 6/2022, số người đăng ký BHXH đạt hơn 16,8 triệu người (tăng hơn 4,2% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng gần 1,7% so với cùng kỳ năm 2021). đến cuối năm 2021), chiếm 33,26% dân số đang hoạt động trong độ tuổi. Trong đó, BHXH tự nguyện đạt khoảng 1,323 triệu người. 

  Số người tham gia BHTN đạt xấp xỉ 13,794 triệu người (tăng gần 4,1% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng 3% so với cuối năm 2021), chiếm 27,28% dân số đang hoạt động của toàn quốc. nhóm tuổi. Việc giải quyết  chế độ hưởng BHXH, BHYT, BHTN được cơ quan BHXH các cấp đảm bảo  kịp thời, đúng quy định; đồng thời tiếp tục  cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết, tạo  thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khi  giao dịch với cơ quan BHXH. 

  Kết quả, trong 6 tháng đầu năm 2022,  BHXH tỉnh đã giải quyết 38.810 hồ sơ hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng; 5.998.841 lượt người hưởng chế độ dưỡng sức, thai sản, dưỡng sức, phục hồi sức khỏe; 590.844 người hưởng trợ cấp một lần. 

 Thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp theo Nghị quyết  42/NQ-CP, Nghị quyết  154/NQ-CP, Nghị quyết 68/NQ-CP và Nghị quyết  116/NQ-CP, cơ quan BHXH đã  giảm được các khoản đóng  các quỹ BHXH, BHTN và  hỗ trợ chi Quỹ BHTN với tổng kinh phí hơn 45.444 tỷ đồng  kịp thời,  minh bạch. Trong đó,  hỗ trợ kinh phí cho gần 12,968 triệu lượt người lao động với số tiền 30,804 tỷ đồng... Đây là những công tác trợ giúp xã hội, giúp đảm bảo  đời sống  một số đối tượng là người già, người tàn tật, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai... 

 Đối tượng  trợ giúp xã hội được mở rộng, mức chuẩn trợ giúp xã hội được điều chỉnh tăng, tạo điều kiện và cơ hội cho các đối tượng yếu thế ổn định cuộc sống. Bên cạnh việc thực hiện tốt các chế độ an sinh xã hội, các dịch vụ như giáo dục, y tế, nước sinh hoạt, nhà ở, thông tin... cũng được Nhà nước quan tâm, nâng cao chất lượng và được đưa vào  tiêu chí của chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều.  

 Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giúp nâng cao khả năng tiếp cận trường học, trạm y tế, nước sạch và thông tin.  

 Đồng thời, Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ người nghèo, trẻ em trong tiếp cận giáo dục, y tế. Nhờ những nỗ lực này, Việt Nam là nước có chỉ số phát triển con người HDI cao, giảm nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng đạt kết quả ấn tượng, BHYT được bao phủ tới hơn 80% dân số (Bùi Văn Huyền, 2019).  

 Tựu chung, mặc dù công tác đảm bảo ASXH của Việt Nam đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn một số tồn tại hạn chế sau: Diện bao phủ của ASXH trên thực tế còn hẹp, chưa đáp ứng được kỳ vọng; Mô hình ASXH hiện nay còn chưa bảo đảm tính bền vững; Mức hỗ trợ ASXH còn thấp và một bộ phận dân cư ở các vùng điều kiện kinh tế khó khăn chưa được bảo đảm mức sống tối thiểu; Chưa có cơ chế huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội cho bảo đảm ASXH; Chất lượng dịch vụ ASXH chưa cao, nhất là các dịch vụ BHYT...  

 2.Giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình mới 

 

 Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, cũng như tiếp tục phát triển ASXH, bảo đảm người dân được bảo vệ tốt hơn trước các rủi ro về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới và triển khai đồng bộ các giải pháp sau: 

 

 Một là, tiếp tục rà soát, hoàn thiện chính sách BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp theo hướng linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế; Có chính sách ưu tiên nguồn lực tài chính cho ASXH, nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước dựa trên sự đóng góp, chia sẻ của cộng đồng doanh nghiệp và khu vực tư nhân.  Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền  mô hình ASXH với nhiều cách làm sáng tạo, tạo chuyển biến căn bản từ nhận thức đến hành động của  cán bộ  ASXH trên các lĩnh vực, ngành, nghề. 

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

 Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện hệ sinh thái an ninh số, đảm bảo hệ thống vận hành công khai, minh bạch, hỗ trợ người dân kịp thời. 

 Bốn là, củng cố và mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với tư cách là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. 

 Thứ năm, có cơ chế phối hợp thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình ASXH nhằm thực hiện chương trình ASXH thống nhất, minh bạch, tránh manh mún, kém hiệu quả. 

 Thứ sáu, tập trung công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát trong lĩnh vực an sinh xã hội nhằm công khai, minh bạch hoạt động an sinh xã hội của những người có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, qua đó phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm theo quy định của Luật an sinh xã hội. pháp luật.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo