Hành vi ghi âm lén có phạm tội

ghi âm có phạm tội

ghi âm có phạm tội

 

1. Ghi âm bí mật có vi phạm pháp luật không?  

Khi người  ghi âm sử dụng bản ghi âm hoặc nội dung ghi âm vào các mục đích trái pháp luật như; nhằm xâm phạm đời  tư, bí mật cá nhân, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, gây tổn hại đến uy tín của người khác... Hiện nay, việc ghi âm lén bị coi là vi phạm pháp luật. 

  Tại Điều 102 khoản 3 điểm q nêu rõ: 

 

  1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: 

 

 “…q.Nghe lén, ghi âm bất hợp pháp các cuộc hội thoại…” 

 

 Bên cạnh đó 

 

 BLHS 2015 cũng quy định  xử lý hình sự đối với hành vi “nghe lén, ghi âm  trái pháp luật” tại Điều 159. 

2. Ghi âm  trái phép bị xử lý như thế nào? 

Những người ghi âm bí mật cho các mục đích bất hợp pháp nói chung; hoặc người sử dụng ghi lại nội dung với mục đích bất hợp pháp sẽ bị xử lý theo  pháp luật về hành vi của mình căn cứ vào thiệt hại xảy ra tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.  

 Theo quy định tại Điều 102, khoản 3, điểm q, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP: 

 

 Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi “nghe lén, ghi âm cuộc đàm thoại trái phép” 

 Theo quy định tại điều 159 BLHS 2015: 

 

 Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20  đến 50 triệu đồng; hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với hành vi “nghe, ghi âm trái phép các cuộc đàm thoại”; đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt  hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Người phạm tội có thể bị phạt tù  đến 03 năm khi  thực hiện các hành vi sau đây: 

 Tổ chức ; 

 Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 

 Phạm tội hai lần trở lên; 

 Tiết lộ  thông tin phù hợp, gây tổn hại đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; 

 Khiến nạn nhân tự tử. 

3. Có thể sử dụng các đoạn ghi âm ẩn để làm bằng chứng không? 

  Ghi  lén có thể được sử dụng làm bằng chứng  vì 

 

 Thứ nhất,  theo quy định tại khoản 1 Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự thì chứng cứ  thu thập được từ 

 

 … “Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử”… 

 

 Thứ hai, theo điểm c khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự  2015 thì nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử mà: 

 

 Dữ liệu điện tử là các ký hiệu; chữ, số, hình; âm thanh hoặc âm thanh tương tự được tạo ra; kho; truyền  hoặc nhận  điện tử.  

 Dữ liệu điện tử được thu thập từ các phương tiện điện tử; mạng máy tính, mạng viễn thông,  đường truyền dẫn và các nguồn điện tử khác.  

 Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào phương thức xuất xứ; lưu trữ hoặc truyền  dữ liệu điện tử; làm thế nào để đảm bảo  và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định bên chào hàng và các yếu tố khác có liên quan”. 

 Như vậy, dữ liệu điện tử bao gồm dữ liệu “âm thanh” được thu thập từ “phương tiện điện tử” theo  quy định của Bộ luật tố tụng hình sự được coi là nguồn  chứng cứ trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.  Đồng thời: Trong tố tụng, bản ghi âm  được coi là chứng cứ nếu  xuất trình kèm theo  bản khai của người có văn bản này về nguồn gốc của bản ghi âm nếu người đó tự ghi âm; hoặc chứng thực bằng văn bản  của người đã cung cấp cho người  trình bày về nguồn gốc của đoạn ghi âm hoặc một văn bản trình bày các sự kiện liên quan đến đoạn ghi âm. Theo đó, khoản 2 Điều 95  về xác định chứng cứ quy định; 

 

 “Tài liệu dành cho khán giả; quan điểm được coi là bằng chứng  nếu  xuất trình kèm theo văn bản  của người giữ tài liệu  về nguồn gốc của tài liệu nếu người đó tự đăng ký; một video hoặc chứng thực bằng văn bản từ người đã cung cấp nó cho người xuất trình về nguồn gốc của tài liệu; hoặc tài liệu  về vụ việc ghi âm, ghi hình.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo