1. Khái niệm quyền hành pháp

Quyền hành pháp là cơ quan thi hành Hiến pháp và các luật do Quốc hội biểu quyết. Quyền hành pháp là bộ phận cơ bản của nhà nước, gồm một số người, được tổ chức và quản lý theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Ngay từ khi nền dân chủ tư sản ra đời, bộ máy nhà nước được chia thành ba bộ phận để thực hiện quyền lực nhà nước. Hành pháp là một trong ba quyền lực, cùng với quyền lập pháp và quyền tư pháp, tạo thành quyền lực của nhà nước. Trong cân bằng quyền lực nhà nước, chức năng riêng biệt của cơ quan hành pháp là tổ chức thi hành và áp dụng Hiến pháp và các luật do Quốc hội (hoặc Nghị viện) ban hành. Xét về chức năng, thi hành pháp luật luôn là chức năng được vận hành thường xuyên, liên tục bởi một bộ máy với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp có chức năng tổ chức thi hành pháp luật của các tầng lớp nhân dân trên toàn lãnh thổ quốc gia. Bộ máy hành pháp có điều kiện, có khả năng trở thành cơ quan chấp hành, quản lý mọi mặt đời sống của xã hội, từ đó cơ quan chấp hành đồng thời thực hiện chức năng hành chính nhà nước, đó là hành chính nhà nước.
Ở các bang, hành pháp thường được tổ chức theo các mô hình khác nhau: chẳng hạn ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ), theo chế độ tổng thống, tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp, với tư cách là một . Thứ trưởng là cơ quan hành chính cao nhất. Tổng thống được bầu từ Nghị viện nhân dân, Thủ tướng được Tổng thống bầu từ Nghị viện nhân dân và chịu sự bỏ phiếu của Quốc hội. Trước Hiến pháp 1959, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất là Hội đồng Chính phủ gồm Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng cơ quan ngang bộ. Chủ tịch nước là người đại diện cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Trong Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ trưởng và Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước. ; Chức vụ nguyên thủ quốc gia do Hội đồng Nhà nước - cơ quan tối cao của Quốc hội, tập thể Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - thực hiện.
Theo Hiến pháp cũ năm 1992, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, cơ quan chấp hành của Quốc hội là Chính phủ, gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Với tư cách là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, Chính phủ với tư cách là cơ quan chấp hành phải đồng thời đảm bảo chức năng điều hành, quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Theo Hiến pháp cũ năm 1992, Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cơ quan hành pháp, được gọi là Quốc vụ viện, đứng đầu là Thủ tướng do Quốc hội bầu ra. Tại Cộng hòa Pháp, cơ quan hành pháp bao gồm cả tổng thống, do cử tri trực tiếp bầu ra, và chính phủ do thủ tướng đứng đầu, do quốc hội bầu ra. Cơ quan quan hệ đối ngoại của một quốc gia ở nước ngoài thực hiện chức năng lãnh sự ở một khu vực lãnh thổ nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan.
Theo quy định của Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, cơ quan lãnh sự bao gồm: tổng lãnh sự, lãnh sự quán, phó lãnh sự quán và tổng lãnh sự quán. Ở Việt Nam, theo Hiến pháp cũ năm 1946, Chính phủ gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các gồm: Thủ tướng, các Bộ trưởng. Thực tế quan hệ lãnh sự hiện nay cho thấy, các nước thường thống nhất thành lập cơ quan lãnh sự và lãnh sự quán.
Việc thiết lập quan hệ lãnh sự, địa điểm đặt cơ quan lãnh sự, phân loại và khu vực lãnh sự hoặc thay đổi cơ quan lãnh sự, phân loại và khu vực lãnh sự, mở cơ quan lãnh sự ngoài khu vực quy định do Nhà nước thoả thuận. Khác với cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự chỉ đại diện cho quốc gia mình về một số vấn đề nhất định và chỉ trong phạm vi lãnh thổ nhất định (gọi là khu lãnh sự). Vì vậy, một quốc gia có thể có nhiều hơn một cơ quan lãnh sự ở một quốc gia khác. Tuy nhiên, các quốc gia có thể tiếp nhận cơ quan lãnh sự song song với chức năng ngoại giao hoặc ngược lại. Chức năng của cơ quan lãnh sự được quy định tại Điều 5 Công ước Viên 1963 về Quan hệ lãnh sự. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan lãnh sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định đầy đủ trong Lệnh lãnh sự.
2. Đặc điểm cơ bản của quyền hành pháp
Để có thể nhận biết đâu là cơ quan bảo vệ pháp luật, chúng ta có thể dựa vào các đặc điểm sau:
- Cơ quan hành pháp là bộ phận cơ bản của nhà nước, tức là cơ quan giữ vai trò chủ đạo, thiết yếu của nhà nước.
- Các cơ quan hành pháp có nhân sự xác định, như chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, v.v.
- Được thành lập theo những cách thức và trình tự khác nhau.
- Tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp do luật định, cụ thể là vai trò, tính chất, hình thức, sơ đồ tổ chức, v.v.
- Có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng do pháp luật quy định, chức năng rộng lớn nhất của cơ quan hành pháp là tổ chức và thực hiện pháp luật. Ở Việt Nam, hành pháp là cơ quan hành chính của nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, hoạt động chủ yếu của cơ quan này là hoạt động chấp hành và điều hành. Cơ cấu tổ chức và phạm vi quyền hạn do pháp luật quy định.
3. Đặc điểm cơ bản của quyền hành pháp
Để có thể phân biệt quyền hành pháp với quyền lập pháp và quyền tư pháp, ta có thể dựa vào những đặc điểm cơ bản sau của quyền hành pháp.
- Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước được thành lập từ Trung ương đến cơ sở, do Chính phủ chỉ đạo, tạo thành một thể thống nhất, được tổ chức theo thứ bậc, có mối quan hệ chặt chẽ, phụ thuộc lẫn nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực hiện quyền quản lý hành chính của nhà nước.
- Thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước được pháp luật quy định dựa trên lãnh thổ, ngành, lĩnh vực chuyên môn chung. Đây là những quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành. Có thể thấy đây là sự khác biệt rõ ràng với quyền lập pháp và tư pháp bởi thẩm quyền của hai quyền này được pháp luật quy định dựa trên cấp lãnh thổ, địa giới hành chính, hơn nữa cơ quan tư pháp còn có thẩm quyền trong lĩnh vực quân sự. .
- Cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự kiểm soát và chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước về công việc.
- Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Hầu hết các cơ quan có chức năng quản lý hành chính đều có các đơn vị trực thuộc. Ví dụ: Bệnh viện công lập trung ương trực thuộc Bộ Y tế; các đơn vị công an, quân đội thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,… các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay như chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp.
- Có chức năng quản lý hành chính Nhà nước. Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành chấp hành, tức là thực hiện các quy phạm pháp luật, đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Như vậy, hoạt động chấp hành - hành chính là mặt hoạt động chủ yếu của cơ quan hành chính nhà nước. Do có phương thức hoạt động hành pháp - hành chính nên đây là dấu hiệu đặc trưng nhất để phân biệt với quyền lập pháp như Quốc hội, với quyền tư pháp như Tòa án. Đối với cơ quan lập pháp, chức năng chính là lập pháp, tức là làm và ban hành luật. Xét về mặt tư pháp, chức năng chủ yếu và quan trọng nhất là xét xử.
4. Đặc điểm của Chính phủ trong việc thực hiện quyền hành pháp
Bao gồm các tính năng sau:
- Quyền hành pháp của Chính phủ không phải là tuyệt đối và phải được thực hiện dưới sự kiểm soát của Quốc hội. Do không phải là quyền lực độc lập mà còn liên quan đến quyền lập pháp của Quốc hội và quyền tư pháp của Tòa án nhân dân nên luôn có sự chi phối, kiểm soát lẫn nhau, tránh lạm quyền. - Đóng vai trò quan trọng nhất trong việc triển khai kế hoạch thi hành pháp luật. Thật vậy, khác với các cơ quan khác chỉ quản lý trong một số lĩnh vực nhất định, Nhà nước quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, chính phủ là cơ quan duy nhất nắm rõ tình hình ở từng địa phương, khu vực, từ đó đưa ra các quyết định và hướng triển khai phù hợp với từng đối tượng. - Bên cạnh sự kiểm soát lẫn nhau giữa cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp, cơ quan hành pháp còn chịu sự kiểm soát của nhân dân, đáp ứng các mục tiêu của nhân dân. Xuất thân với tư cách là cơ quan đại diện cho nguyện vọng của nhân dân, tổ chức thi hành pháp luật phải luôn hướng tới nhân dân, gắn liền với lợi ích của nhân dân.
5. Cơ quan hành pháp của chính phủ theo Hiến pháp 2013
Cơ quan hành pháp của chính phủ có những đặc điểm riêng biệt:
- Thứ nhất: Cơ quan hành pháp của chính phủ có tính độc lập tương đối với các nhánh quyền lực nhà nước khác nhưng vẫn trực thuộc cơ quan quyền lực tối cao của Quốc hội. Do cơ quan quyền lực nhà nước tạo ra, điều này không có nghĩa là quyền hành pháp của chính quyền là quyền bắt nguồn từ quyền lực. Quyền hành pháp của Chính phủ đặt trong mối quan hệ với quyền lập pháp của Quốc hội và quyền tư pháp của Tòa án, hai quyền này độc lập, tác động và chi phối lẫn nhau. - Thứ hai: Cơ quan hành pháp của chính phủ đóng vai trò cơ bản và quan trọng nhất trong việc hoạch định, tổ chức và thực thi chính sách, pháp luật. Trong Hiến pháp năm 2013, mặc dù lần đầu tiên quyền hành pháp của Chính phủ được hiến định, nhưng có thể nói, trong suốt lịch sử kể từ khi thành lập Chính phủ từ năm 1945 cho đến nay, những nhiệm vụ, quyền hạn này của Chính phủ luôn là quyền nhiệm vụ chủ yếu, thiết yếu để chính phủ bảo đảm hiệu quả hoạt động, quản lý, điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc quy định chức năng của Chính phủ trong Hiến pháp mới cũng là sự ghi nhận những kết quả to lớn đã đạt được, đồng thời khẳng định vai trò của Chính phủ trong hoạch định, tổ chức và thực thi chính sách, pháp luật. Bởi lẽ, so với các chủ thể khác chỉ thực hiện quyền hành pháp trong một số lĩnh vực nhất định và giới hạn trong phạm vi đơn vị hành chính lãnh thổ dưới sự giám sát của chính quyền địa phương, Chính phủ là cơ quan thống nhất chấp hành pháp luật, quản lý, điều hành và chỉ đạo các hoạt động trong lĩnh vực hành pháp. hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ; sự quản lý thống nhất của nền hành chính quốc gia... Cùng với đó, Chính phủ với bộ máy quản lý mở rộng từ trung ương đến địa phương thực hiện quyền hành pháp phân bổ trên các đơn vị hành chính và lãnh thổ. - Thứ ba: Cơ quan hành pháp nhà nước nhằm mục đích phục vụ nhân dân, đồng thời chịu sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân.
Nội dung bài viết:
Bình luận