Năng lực hành vi dân sự là khả năng của chủ thể do pháp luật quy định, bằng hành vi và theo ý chí của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Vậy làm thế nào để xác định một cá nhân có đủ, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự? Bài viết dưới đây sẽ giải đáp chính xác:
1. Quy định về năng lực hành vi dân sự của chủ thể
Năng lực hành vi dân sự của chủ thể bao gồm khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể; khả năng tự chịu trách nhiệm bằng tài sản về hành vi của mình, bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi bất hợp pháp.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân phụ thuộc vào lứa tuổi, vào khả năng nhận thức và điều khiển Hành Vi của cá nhân đó. Căn cứ vào khả năng này pháp luật dân sự phân biệt: người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (người thành niên, trừ người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không làm chủ nhận thức, làm chủ được hành vi của mình); người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vì dân sự một phần; người do bị bệnh mà không thế nhận thức, làm chủ được hành vì của mình là người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người chưa đủ 06 tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Những người có năng lực hành vi dân sự một phần, người mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người không có năng lực hành vi dân sự, muốn tham gia giao dịch dân sự phải thông qua người giám hộ hoặc được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.2. Khái niệm năng lực dân sự của cá nhân
Tính chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, trọn vẹn và độc lập khi người đó có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bên cạnh năng lực pháp luật dân sự là thuộc tính được pháp luật công nhận đối với mọi cá nhân.
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự” – Điều 19 BLDS 2015.
Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề và khách quan pháp luật dân sự của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra quyền và thực hiện quyền, nghĩa vụ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao gồm năng lực tự chịu trách nhiệm dân sự của mình khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong quan hệ dân sự.
3. Trình độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì lại xác định năng lực hành vi của các cá nhân là không giống nhau. Các cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Ý thức và khả năng điều khiển hành vi của một cá nhân phụ thuộc vào ý chí và trí óc, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của bản thân. Căn cứ vào năng lực nhận thức, điều khiển hành vi và hậu quả của hành vi đó, pháp luật phân biệt các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, khó có tiêu chí để xác định năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của một cá nhân, chính vì vậy độ tuổi của cá nhân được coi là tiêu chí chung nhất để phân biệt các mức độ năng lực hành vi của một cá nhân.
3.1 Năng lực hành vi đầy đủ
Người đã thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp bị tuyên bố là mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu chứ không quy định độ tuổi tối đa đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, đầy đủ quyền tham gia các quan hệ dân sự với tư cách là những chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Người đủ 18 tuổi trở lên được coi là có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Họ mất năng lực hành vi hoặc chỉ bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của Tòa án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi trong việc dân sự. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì phụ nữ đủ 18 tuổi (17 tuổi 1 ngày) trở lên có quyền kết hôn nhưng theo quy định này thì phụ nữ đến tuổi kết hôn có thể chưa có đầy đủ năng lực hành vi.
3.2 Năng lực hành vi một phần
Người cải tạo một phần (không đầy đủ) hành vi là người chỉ được xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.
“7. Người chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi.
2. Hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó soạn thảo và thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện hành vi dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ hành vi dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. 4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải tự mình soạn thảo, thực hiện hành vi dân sự, trừ hành vi dân sự về bất động sản, động sản phải đăng ký và hành vi dân sự khác do pháp luật quy định phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý” (Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015).
Như vậy, người dưới 18 tuổi là người có năng lực hành vi dân sự một phần. Các em có thể thông qua hành vi của mình tạo ra quyền và nghĩa vụ khi tham gia giao dịch nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi. Mặc dù pháp luật không quy định rõ giao dịch nào là “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày”, “phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu đây là những giao dịch có giá trị thấp, phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống được người đại diện ủy quyền thực hiện mà không được sự đồng ý trực tiếp của người đại diện (mua đồ dùng giải trí, tiêu dùng quà tặng, trò chơi). Người đại diện của thể nhân ở độ tuổi này có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà không cần sự đồng ý của họ và Tòa án xem xét trong trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu này theo quy định tại Điều 125 BLDS 2015. Trường hợp người đại diện không yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp lệ của giao dịch này thì giao dịch đương nhiên được coi là có hiệu lực.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể tự mình xác lập, giao dịch bằng tài sản riêng của mình mà không cần được sự đồng ý của người đại diện. Trong trường hợp pháp luật có quy định phải được sự đồng ý của người đại diện thì quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp của người chưa thành niên nói chung (như di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, định đoạt tài sản là nhà, đất...).
3.3 Mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự
Khái niệm “mất đi” được hiểu chung là hiện tượng, sự vật hiện có, tồn tại nhưng không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và được hoàn thiện khi cá nhân đến tuổi trưởng thành. Thông thường, khả năng hành động của một cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt năng lực pháp luật (tử vong hoặc tử hình bởi tòa án). Tuy nhiên, người lớn có thể bị tuyên bố là không phù hợp khi có một số điều kiện, quy trình và thủ tục nhất định. Trường hợp một người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS 2015). Căn cứ vào kết luận giám định của cơ quan giám định có thẩm quyền, Tòa án có thể tuyên bố một người mất năng lực theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện của họ xác lập, thực hiện. Trường hợp vì lý do hậu quả mà họ bị tuyên bố mất năng lực hành vi nhưng không còn tồn tại thì họ, người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này theo yêu cầu của người này sẽ bị cản trở trong quá trình tố tụng. Theo quy định, khi mất năng lực tố tụng dân sự thì họ cũng mất năng lực tố tụng, không thể khởi kiện hay ra tòa mà phải thông qua hành vi của người có năng lực tố tụng dân sự nên UBND xã phải giải quyết vấn đề này.
Năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở điều kiện, thủ tục quy định tại Điều 24 Bộ luật dân sự 2015. Năng lực hành vi của người đã thành niên bị hạn chế khác với năng lực bộ phận của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mặc dù nhìn bề ngoài thì chúng có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đương nhiên được công nhận là có đầy đủ năng lực hành vi khi họ đạt một độ tuổi nhất định, trong khi việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự và được áp dụng đối với người nghiện ma túy, chất kích thích dẫn đến hủy hoại tài sản của gia đình. Quy định này có ý nghĩa xã hội to lớn, đặc biệt có tác dụng sâu sắc trong việc phòng chống các tệ nạn xã hội. Việc tòa án áp dụng quy định này sẽ tác động mạnh mẽ đến những người sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Nghiện ma túy và các chất kích thích khác nên là nguyên nhân dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì việc nộp đơn ra tòa tuyên bố hạn chế khả năng hành vi không chỉ thuộc về người có quyền, lợi ích liên quan mà quan trọng hơn là các cơ quan, tổ chức hữu quan cũng có quyền nộp đơn lên tòa án. Điều này tạo điều kiện tốt hơn để quy định này được áp dụng trên thực tế chứ không chỉ về mặt pháp lý.
Căn cứ vào tình hình thực tế và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và mức độ đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Trường hợp không cần tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự kéo theo những hậu quả pháp lý nhất định, tư cách chủ thể của những người này là người có năng lực hành vi dân sự một phần.
3.4 Những người có khó khăn về nhận thức và kiểm soát hành vi
Là chủ thể mới được ghi nhận tại Điều 23 BLDS 2015 với các đặc điểm: (i) có yếu tố thể chất (như khiếm khuyết về thể chất như bị câm, mù, điếc, tai nạn liệt...) hoặc yếu tố tinh thần (chấn động tâm lý...) là không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự; (ii) có yêu cầu của người đó, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan trước tòa án; (iii) kết luận giám định pháp y tâm thần; (iv) Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó có khó khăn về nhận thức, hành vi, cử người giám hộ và xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Nếu các căn cứ trên không còn và kết luận người đó có khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi của mình bình thường thì Tòa án ra quyết định hủy quyết định tuyên người đó có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Nội dung bài viết:
Bình luận