Khái niệm dự án đầu tư xây dựng cơ bản là gì

dự án đầu tư xây dựng cơ bản là gì

dự án đầu tư xây dựng cơ bản là gì

 

1. Xây dựng cơ bản là gì?

 Xây dựng cơ bản là  chương trình, dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và  chương trình, dự án  phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng cơ bản là hoạt động có chức năng tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng  tài sản cố định của sản xuất có tổ chức và sản xuất  không có tổ chức của các ngành kinh tế thông qua  xây dựng mới, xây dựng mở rộng, tái thiết, hiện đại hóa hoặc phục hồi tài sản. 

 Đầu tư xây dựng TSCĐ trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận của đầu tư phát triển. Là quá trình tư bản hóa để thực hiện hoạt động kiến ​​thiết cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong nền kinh tế. Vì vậy, đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nền kinh tế nói chung và các cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại nói riêng. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động chủ yếu tạo vốn và đưa vào hoạt động kinh tế - xã hội, nhằm thu lợi ích dưới nhiều hình thức. Đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế quốc dân được thực hiện dưới nhiều hình thức như xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa hoặc khôi phục các tài sản vốn của nền kinh tế. 

 

 Xây dựng cơ bản theo tiếng anh là “Capital construction”. 

2. Quy định về vốn đầu tư xây dựng: 

 Đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận của hoạt động đầu tư, tức là chi vốn để thực hiện hoạt động xây dựng cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng  tài sản cố định nhằm phát triển vốn hình thành và phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. 

  Đầu tư XDCB có tính chất đặc thù, đòi hỏi nhà quản lý phải nắm vững để đưa ra các quyết định quản lý phù hợp nhất. Bao gồm các tính năng sau: 

 

 – Đầu tư xây dựng TSCĐ là hoạt động đòi hỏi nguồn vốn lớn và được ký quỹ trong  quá trình thực hiện đầu tư. Vì vậy, công tác quản lý và tài trợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cần có biện pháp thích hợp để đảm bảo  vốn được sử dụng đúng mục đích, không để xảy ra tình trạng ứ đọng, thất thoát vốn đầu tư, đảm bảo  quá trình đầu tư xây dựng  được thực hiện đúng  kế hoạch đã xác định và lịch trình. – Đầu tư XDCB có tính chất lâu dài, thời gian từ khi đầu tư  đến khi thực hiện thành công  thường kéo dài nhiều năm, có nhiều biến động. Vì vậy, các yếu tố thay đổi theo thời gian sẽ ảnh hưởng  lớn đến công tác quản lý đầu tư tài sản cố định như giá cả, lạm phát, lãi suất, v.v. 

 

 - Thu nhập đầu tư xây dựng thực chất là  công trình xây dựng gắn liền với đất xây dựng. Vì vậy, mọi công trình xây dựng đều có  địa điểm xây dựng và chịu sự chi phối của các điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, môi trường, khí hậu, khí tượng, v.v. trong khai thác và sử dụng. Sản phẩm xây dựng cơ bản chủ yếu làm theo đơn đặt hàng. Vì vậy, quản lý  đầu tư xây dựng cần dựa trên cơ sở dự toán  đầu tư xây dựng được xác định và phê duyệt trước khi thực hiện đầu tư xây dựng. 

– Sản phẩm đầu tư xây dựng cơ bản có tính chất đơn nhất; từng hạng mục công trình, hạng mục công trình có  thiết kế, dự toán riêng tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư và đặc điểm địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí hậu, khí tượng,... của khu đất. Mục đích  đầu tư và các điều kiện trên quyết định  quy hoạch, kiến ​​trúc, kết cấu quy mô  khối lượng, tiêu chuẩn xây dựng, giải pháp công nghệ công trình, v.v. và lập dự toán chi phí đầu tư xây dựng, phần tử xây dựng. Vì vậy, công tác quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản nguồn NSNN cần gắn với từng  công trình, công trình xây dựng để quản lý chặt chẽ  chất lượng công trình và vốn đầu tư. 

 Vốn đầu tư xây dựng  được thực hiện trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, các lĩnh vực kinh tế - xã hội như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng, y tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... nên sản phẩm xây dựng cơ bản có nhiều loại  công trình và mỗi loại  công trình có  đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải phù hợp với đặc điểm của từng loại  công trình để bảo đảm  sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. 

– Các khoản đầu tư XDCB thường được thực hiện ngoài trời nên luôn chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời tiết và lực lượng thi công  thường xuyên phải di chuyển tùy theo nơi phát sinh nhu cầu đầu tư xây dựng. Công tác quản lý và tài trợ vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải thúc đẩy việc tổ chức hợp lý các yếu tố về nhân lực, máy móc thi công, v.v. 

 Những đặc điểm trên của vốn  đầu tư xây dựng cho thấy tính đa dạng, phức tạp của vốn đầu tư xây dựng  và đòi hỏi  phải có cách thức tổ chức quản lý, phân bổ vốn phù hợp để đảm bảo hiệu quả của ''đầu tư. Vì vậy, quản lý chi XDCB của NSNN cần  có những nguyên tắc, biện pháp và trình tự quản lý, phân bổ vốn nhất định trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý chi NSNN nói chung và được sử dụng tùy đặc điểm của nơi đầu tư vốn. 

 Nhìn chung, các quy định về đầu tư XDCB trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa thực sự rõ ràng, nói đến đầu tư XDCB người ta chủ yếu  nghĩ đến  vốn  ngân sách của nhà nước, bởi  đầu tư XDCB là  nhiệm vụ chi lớn mà ngân sách phải đảm bảo . Phân tích hay học đầu tư XDCB là tổng hợp của luật ngân sách nhà nước, luật đầu tư công, luật xây dựng thì cũng phần nào đánh giá được sự phức tạp đang tồn tại. 

 Nguồn vốn đầu tư xây dựng TSCĐ từ ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước với tư cách là  quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước tham gia huy động và phân phối vốn đầu tư thông qua hoạt động thu chi của chính phủ. Theo phân cấp quản lý ngân sách nhà nước,  vốn đầu tư  ngân sách nhà nước có thể được chia thành: 

(i) Vốn đầu tư  ngân sách trung ương được hình thành từ nguồn thu  ngân sách trung ương để đầu tư cho các dự án phục vụ  lợi ích quốc gia.

 (ii) Vốn đầu tư của ngân sách địa phương được hình thành từ nguồn thu của ngân sách địa phương để đầu tư cho các dự án phục vụ lợi ích của từng địa phương. Nguồn vốn này thường được ủy thác cho  chính quyền địa phương quản lý và sử dụng. Đầu tư xây dựng TSCĐ từ ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tập trung của ngân sách nhà nước để đầu tư tái sản xuất TSCĐ nhằm từng bước củng cố, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật. cơ sở và sản xuất. khả năng  phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. 

 Nhược điểm của cơ chế thị trường là các cá nhân, tổ chức kinh tế sẽ không đầu tư vào các lĩnh vực phi lợi nhuận hoặc có lợi nhuận thấp, trong khi  đầu tư xây dựng cơ bản là cần thiết để phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội nên việc đầu tư xây dựng TSCĐ từ ngân sách nhà nước mới đảm đương được vai trò quan trọng này. Đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quan trọng đối với mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của mọi quốc gia. 

 Đầu tư xây dựng cơ bản góp phần hình thành các nhà máy mới, thiết bị công nghệ, dây chuyền sản xuất mới, hiện đại hoặc mở rộng, cải tạo các nhà máy cũ. Nhờ đó tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất ở cấp địa phương góp phần phát triển kinh tế.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo