Đồng phục cấp dưỡng

1.Nội dung vụ việc: 

 

 Theo Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng[2] về vụ án hôn nhân và gia đình “Tranh chấp xác định cha của con và  cấp dưỡng cho con” giữa nguyên đơn là bà Lý Thị Minh T và bị đơn là ông Dương Minh T1  vụ án có nội dung như sau: 

 

 Nguyên đơn bà Lý Thị Minh T trình bày: Năm 2016, bà và ông T. 

 Dương Minh T1 quen biết nhau và nảy sinh tình cảm. Sau một thời gian yêu nhau  chị T có thai,  ngày 16/10/2017  chị T sinh cháu Lý Trần Thảo N, hiện  cháu N  sống  với chị T. Từ khi chị T sinh con đến nay anh T1 và gia đình cũng không quan tâm đến cháu N. Ban đầu, sau khi biết cháu T có thai, ông T1 và gia đình  hứa sẽ tổ chức đám cưới cho cháu T và ông T1 vì lúc đó cháu T đã có thai. , chị chưa đủ 18 tuổi nhưng  đến nay anh T1 và gia đình vẫn chưa và hiện  anh T1 cũng đã có gia đình với người phụ nữ khác. Ông T1 không giữ lời hứa mà còn cho rằng  N không phải  con mình. Hai bên gia đình  đã bàn bạc nhưng không đi đến thống nhất, tuy nhiên bố mẹ anh T1 cho rằng chị T cố tình nói xấu, dùng  lời lẽ xúc phạm mình và gia đình. Vì lòng tự trọng của T2, ngoài việc đòi lại quyền lợi cho con, chị T đã nhờ đến sự can thiệp của pháp luật  để chứng minh cháu Lý Trần Thảo N là con của  Dương Minh T1. Bà Lý Thị Minh T yêu cầu Tòa án giải quyết: Tuyên bố cháu Lý Trần Thảo N là con ruột của  Dương Minh T1, đồng thời yêu cầu ông T1 thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) từ ngày 16/10/2017  đến khi  Lý Trần Thảo N tròn 18 tuổi. 

  Bị cáo Dương Minh T1 trình bày: Đồng ý với kết luận của thẩm phán 

 xác định ADN và ông thừa nhận mình là cha ruột của cháu Lý Trần Thảo N. Tuy nhiên, về mức cấp dưỡng chị T yêu cầu ông không đồng ý. Hiện tại, do  vẫn ở với bố mẹ, phụ giúp nuôi tôm cho  anh trai là Dương Hữu T2 với thu nhập hàng tháng là 3.000.000đ (ba triệu đồng), lại không có công việc nào khác nên hiện tại anh chỉ nhận hỗ trợ hàng tháng. là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. 

  Tại Bản án sơ thẩm số 20/2020/HNGĐ-ST ngày 22/7/2020, Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng  quyết định: 

 

 Phù hợp với: Khoản 4, 5 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 

 39 khoản 2 điều 161, điều 271, điều 273, điều 280 và điểm a khoản 2 điều 482 

  Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 và khoản 3 Điều 82, khoản 3 Điều 102, 110, 116 của 

 Luật Hôn nhân và Gia đình  2014; Khoản 2 Điều 26, điểm a Khoản 6 Điều 27 

 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội 

 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng  phí, lệ phí hợp pháp 

 sự phán xét. Bản án: 

 

2. Chấp nhận một phần yêu cầu  của nguyên đơn bà Ly 

 Thị Minh T về  tranh chấp “Xác định cha của con và  cấp dưỡng cho con” 

 đứa trẻ". 

  1. Đã xác định được Anh Duong Minh T1 là cha ruột của cháu Lý Trần Thảo N (Ge 

 giới tính: nữ), sinh ngày 16/10/2017. Bà Lý Thị Minh T tiếp tục trông nom, chăm sóc, 

 nuôi dưỡng và giáo dục  Lý Trần Thảo N. Anh Dương Minh T1 T1 có quyền, 

 không cản trở nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc cháu Lý Trần Thảo N. 

  1. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Dương Minh T1 phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng  1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi cháu Lý Trần Thảo N thành niên (18 tuổi). bản án sơ thẩm (22/07/2020). 

 Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên  án phí dân sự sơ thẩm, chi phí giám sát 

 xác định ADN và thông báo quyền kháng cáo của các bên theo quy định của pháp luật. 

 Ngày 03/8/2020, nguyên đơn chị Lý Thị Minh T kháng cáo bản án sơ thẩm 

 nêu trên, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết sửa một phần bản án sơ thẩm tuyên buộc anh Dương Minh T1 phải cấp dưỡng nuôi con với số tiền 

 2.000.000đồng/tháng, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 16/10/2017 cho đến khi cháu Lý Trần Thảo N đủ 18 tuổi.  

 Tại Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhận định: 

 

đồng phục cấp dưỡng

đồng phục cấp dưỡng

 

 [I] Về tố tụng: Người kháng cáo, nội dung và hình thức đơn kháng cáo, thời hạn kháng cáo của nguyên đơn Lý Thị Minh T là đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, kháng cáo hợp lệ và đúng theo luật định, nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm đối với nội 

 dung kháng cáo và các vấn đề có liên quan đến việc kháng cáo. 

  [II] Về nội dung: 

 

 [1] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong quá trình giải 

 quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa sơ thẩm anh Dương Minh T1 thống 

 nhất với kết luận giám định ADN, thừa nhận anh là cha đẻ của cháu Lý Trần Thảo N và đồng ý cấp dưỡng nuôi con, cấp sơ thẩm xác định anh Dương Minh T1 là cha đẻ của cháu Lý Trần Thảo N và buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ và đúng pháp luật. 

  [2] Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn chị Lý Thị Minh T kháng cáo một 

 phần bản án sơ thẩm về mức cấp dưỡng và thời gian bắt đầu thực hiện nghĩa vụ 

 cấp dưỡng nuôi con. Theo đó, nguyên đơn yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ 

 thẩm theo hướng buộc bị đơn cấp dưỡng nuôi con với mức 2.000.000đồng/tháng 

 và thời gian bắt đầu cấp dưỡng kể từ ngày cháu Lý Trần Thảo N được sinh ra là từ ngày 16/10/2017 đến đủ 18 tuổi.  

 [3] Xét thấy, việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con là trách nhiệm của 

 cha mẹ đối với con; cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con 

 đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và 

 không có tài sản để tự nuôi mình; người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người con; người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Chị Lý Thị Minh T là người trực tiếp nuôi cháu Lý Trần Thảo N nên có quyền yêu cầu anh Dương Minh T1 cấp dưỡng nuôi cháu N; anh T1 là người không trực tiếp nuôi con nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu N theo quy định tại Điều 107 và Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.  

 [4] Về mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận hoặc căn cứ vào thu nhập, khả 

 năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng để ấn định cho phù hợp. Theo quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”, cũng như theo hướng dẫn tại điểm b mục 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 “Tiền cấp dưỡng nuôi con...do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý” và tại mục 2 phần III Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao về giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật hướng dẫn “mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”. Do đó,  nếu các bên không thỏa thuận được thì mức cấp dưỡng cho con sẽ được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu cơ bản của người được cấp dưỡng  nhưng mức tối thiểu không ít hơn. quá 1/2 mức lương tối thiểu (đã trở thành lương cơ sở) do Nhà nước quy định trong thời gian xét xử sơ thẩm đối với trẻ em.




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo