Để điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhà nước sử dụng các biện pháp tác động khác nhau, ra lệnh cho các quan hệ xã hội phát sinh, biến đổi và kết thúc theo ý chí của nhà nước. Phương thức tác động của Nhà nước lên các quan hệ xã hội thể hiện những đặc điểm khác nhau tuỳ theo từng quan hệ xã hội.
1. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự
Chủ thể của luật dân sự là các quan hệ nhân thân và tài sản của các thể nhân và pháp nhân trong các quan hệ dựa trên sự bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và trách nhiệm pháp lý của nhân thân (sau đây gọi là quan hệ dân sự) (Điều 1 BLDS 2015).
2. Quan hệ sở hữu
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua tài sản. Quan hệ tài sản luôn gắn với một số tài sản được biểu hiện dưới hình thức này hay hình thức khác.
Tài sản (khái quát tại Điều 105 BLDS 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản). Quan hệ tài sản không chỉ giới hạn trong phạm vi vật vô tri vô giác mà còn chứa đựng nội dung xã hội, đó là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản,
Quan hệ tài sản không chỉ bao gồm những vật thuộc sở hữu của ai, ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chúng mà còn bao gồm cả việc chuyển những tài sản này từ chủ thể này sang chủ thể khác, quyền yêu cầu của một hoặc nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng với những yêu cầu này của một hoặc nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là quan hệ tài sản. Các quan hệ sở hữu rất đa dạng và phức tạp vì các yếu tố cấu thành nên các quan hệ này bao gồm: chủ thể tham gia, đối tượng chịu tác động và nội dung của các quan hệ này. Quan hệ vợ chồng do luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau đây:
- Quan hệ vợ chồng do luật dân sự điều chỉnh là quan hệ tự nguyện. Quan hệ tài sản giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng sản phẩm cũng như cung ứng các dịch vụ trong xã hội. Quan hệ sở hữu luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và thống nhất với quan hệ sản xuất là cơ sở hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập với ý muốn của con người, nhưng phát sinh và phát triển theo những quy luật khách quan khác. Nhưng các quy luật này được nhận thức và phản ánh thông qua các quy phạm pháp luật mang tính chủ quan - ý chí của giai cấp thống trị phản ánh tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục tiêu và với những động cơ nhất định. Vì vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia đều mang ý chí của các chủ thể và phải phù hợp với ý chí của nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật và luật dân sự. Nhà nước sử dụng các quy phạm pháp luật dân sự để tác động vào các quan hệ kinh tế, làm cho các quan hệ đó phát sinh và biến đổi theo ý chí của nhà nước.
- Quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh có tính chất thương mại, tiền tệ. Các quy luật kinh tế thị trường trong nền sản xuất xã hội chi phối các quan hệ tài sản, một trong những quan hệ đó là quan hệ tiền - hàng. Khái niệm hàng hóa ngày càng phát triển cùng với sự chuyên môn hóa sản xuất, với sự phát triển của khoa học - công nghệ và quan niệm xã hội về vật trao đổi. Tài sản là chủ thể, đồng thời là đối tượng của quan hệ tài sản phải có giá trị bằng tiền và có thể chuyển giao thông qua giao dịch dân sự. Vì vậy, các quan hệ sở hữu này không nằm ngoài sự kiểm soát của quy luật tài sản - tiền tệ.
- Quan hệ vợ chồng do luật dân sự điều chỉnh có tính chất bù trừ tương đương. Sự đền bù tương đương trong trao đổi là một biểu hiện của quan hệ thị trường và tiền tệ, đặc trưng của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.3. Các mối quan hệ cá nhân
Ngoài quan hệ tài sản, pháp luật dân sự còn điều chỉnh quan hệ nhân thân (Điều 1 Bộ luật dân sự 2015). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người xung quanh một giá trị nhân thân, là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận là quyền tuyệt đối của cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể và về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Đó là quyền dân sự tuyệt đối, mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác.
Pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân này, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện và bảo vệ quyền nhân thân (Điều 11 – 14 BLDS 2015).
Nó có thể được chia thành các nhóm sau:
- Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản
- Quan hệ nhân thân không gắn liền với tài sản
Quan hệ nhân thân do pháp luật điều chỉnh có những đặc điểm sau:
Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có thể dịch chuyển tức thời. Những trường hợp đặc biệt này phải được pháp luật quy định (quyền công bố tác phẩm của tác giả tác phẩm, đối tượng sở hữu công nghiệp).
Quyền nhân thân không định lượng được - giá trị nhân thân và tiền tệ không tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân phi tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự, uy tín của tổ chức; quyền tên đầy đủ; thay đổi tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền hình ảnh; với những bí mật riêng tư; quyền kết hôn, ly hôn... (từ điều 26 đến điều 39 BLDS 2015). Một số quyền nhân thân mới được ghi nhận và bảo vệ trong BLDS 2015) Một số quyền nhân thân mới được ghi nhận và bảo vệ trong BLDS 2015 như: quyền về bí mật đời tư, bí mật gia đình; chuyển sang quyền riêng tư; Quyền nhân thân trong quan hệ hôn nhân và gia đình,...
Pháp luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy định những biện pháp bảo vệ những giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá trị cá nhân khác nhau nhưng được bảo vệ như một nahu khi những giá trị đó bị vi phạm.
Quan hệ nhân thân gắn liền với quyền sở hữu là những giá trị nhân thân khi được xác lập sẽ làm phát sinh quyền sở hữu. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh quyền tài sản khi có các sự kiện pháp lý nhất định như quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật; bản quyền sáng chế, luật tiện ích, kiểu dáng công nghiệp, v.v. được hưởng tiền bản quyền, thù lao, thù lao do áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nói trên. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân, nhưng khi hình ảnh đó bị người khác sử dụng nhằm mục đích thương mại thì người có hình ảnh đó sẽ phải bồi thường. Là sự kiện làm phát sinh quyền nhân thân gắn liền với tài sản.4. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự
Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là cách thức, biện pháp nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ này theo ý chí của nhà nước, phù hợp với ba lợi ích (nhà nước, xã hội và cá nhân).
Luật dân sự điều chỉnh quan hệ tài sản và nhân thân của các thể nhân và pháp nhân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập trong vấn đề tài sản và trách nhiệm cá nhân. 5. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:
- Các chủ thể tham gia quan hệ tài sản và nhân thân do luật dân sự điều chỉnh đều độc lập về tổ chức và quyền sở hữu, bình đẳng về địa vị pháp lý. Tính độc lập và tái sản xuất về mặt tổ chức là tiền đề tạo nên sự bình đẳng trong các mối quan hệ mà các chủ thể tham gia. Bởi vì quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh có tính chất thị trường - tiền tệ, và sự đền bù tương đương là đặc trưng của trao đổi. Nếu không có quyền sở hữu độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng thì sẽ không có sự đền bù tương đương. Sự bình đẳng, độc lập được thể hiện ngay cả trong trường hợp các chủ thể có những quan hệ khác mà họ không bình đẳng (trong quan hệ hành chính, lao động,...) và chính sự bình đẳng, độc lập của các chủ thể đã tạo tiền đề cho các quyền tự định đoạt sau này.
- Pháp luật dân sự ghi nhận quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia quan hệ tài sản. Khi tham gia vào quan hệ tài sản, mỗi chủ thể đều đặt ra mục đích với những động cơ nhất định. Vì vậy, việc lựa chọn quan hệ cụ thể nào là do chính các chủ thể tự quyết định, căn cứ vào khả năng, điều kiện và mục đích mà họ tham gia vào các quan hệ đó. Khi tham gia vào các quan hệ cụ thể, các chủ thể tự do lựa chọn đối tác tham gia, nội dung quan hệ mà mình tham gia, việc miễn nhiệm và biện pháp thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp này, các bên có thể tự xác lập các biện pháp bảo vệ, hình thức, mức độ trách nhiệm và cách thức thực thi trách nhiệm khi một trong hai bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận.
Tuy nhiên, quyền tự định đoạt của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ không có nghĩa là tự do, tùy tiện trong việc tạo lập, sửa đổi hay chấm dứt các quan hệ này. Đặc điểm chung của quan hệ sở hữu và nhân thân là đa dạng và phức tạp. Vì vậy, các quy phạm pháp luật không thể dự liệu hết các mối quan hệ đang tồn tại và phát triển.
- Đặc trưng của phương thức giải quyết tranh chấp dân sự là hòa giải. - Trách nhiệm dân sự không chỉ do pháp luật điều chỉnh mà còn do sự thoả thuận của các bên về điều kiện và hậu quả của nó.
Nội dung bài viết:
Bình luận