Khái niệm sức mạnh thị trường thường không được định nghĩa trong luật cạnh tranh của các nước nhưng lại là một khái niệm quan trọng trong việc đánh giá liệu một hành động hoặc thỏa thuận có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh trên thị trường hay không. Một thỏa thuận hoặc hành động, thậm chí là phản cạnh tranh, không có khả năng ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh trên thị trường nếu công ty hoặc nhóm công ty thực hiện thỏa thuận hoặc hành vi này không có quyền lực trên thị trường. Chẳng hạn, luật cạnh tranh của các nước đều cấm các công ty lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, và để được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường, các công ty này phải có sức mạnh thị trường trong một số điều kiện nhất định.

doanh nghiệp độc quyền có sức mạnh thị trường
1. Định nghĩa sức mạnh thị trường
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Ủy ban Thương mại Công bằng định nghĩa sức mạnh thị trường là khả năng duy trì giá cao hơn giá cạnh tranh trong một khoảng thời gian đáng kể đồng thời tạo ra lợi nhuận. Theo Hướng dẫn của Cục Thương mại Công bằng Vương quốc Anh về Đánh giá Sức mạnh Thị trường (OFT 415): "Sức mạnh thị trường phát sinh khi một công ty không chịu áp lực cạnh tranh đáng kể... Sức mạnh thị trường có thể được hiểu là khả năng giữ giá cao hơn giá cạnh tranh hoặc giảm chất lượng hoặc sản lượng xuống dưới mức cạnh tranh trong khi vẫn tạo ra lợi nhuận." Có một số điều cần lưu ý khi tìm kiếm sức mạnh thị trường: Thứ nhất, cả người mua và người bán đều có thể có sức mạnh thị trường, tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn, khái niệm sức mạnh thị trường thường được dùng để chỉ sức mạnh của người bán. Khi đề cập đến sức mua, một thuật ngữ khác sẽ được sử dụng, đó là sức mua. Thứ hai, sức mua và sức mua thị trường không có tính chất tuyệt đối mà chỉ có một mức độ nhất định và phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Thứ ba, bên cạnh khả năng giữ giá cao hơn giá cạnh tranh, hãng có sức mạnh thị trường còn có khả năng tác động tiêu cực đến quá trình cạnh tranh theo nhiều cách khác, như làm giảm tình trạng cạnh tranh hiện tại, dựng rào cản gia nhập thị trường, hoặc làm chậm quá trình cải tiến sản phẩm... Nói cách khác, sức mạnh thị trường không chỉ giới hạn ở khả năng tăng giá cao hơn mức cạnh tranh của hãng. Tuy nhiên, nó là định nghĩa được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Vì một công ty duy nhất có thể nắm giữ sức mạnh thị trường (sức mạnh duy nhất), trong các trường hợp khác, các nhóm công ty cũng có thể công khai hoặc riêng tư đồng ý không cạnh tranh với nhau, do đó, nhóm cũng có thể giữ được sức mạnh thị trường của nhóm.
2. Xác định sức mạnh thị trường
Công cụ được trích dẫn phổ biến nhất để xác định sức mạnh thị trường là Chỉ số Lemer. Chỉ số này trực tiếp đo lường sức mạnh thị trường của một công ty bằng cách trừ chi phí cận biên (MC) của sản phẩm từ giá của sản phẩm và chia cho giá của sản phẩm. Kết quả sẽ đi từ 0 đến 1, chỉ số này càng cao (tiến tới 1) thì sức mạnh thị trường của công ty này càng lớn. Mặc dù Chỉ số Lerner có vẻ như là một phương pháp nhanh chóng và đơn giản để xác định sức mạnh thị trường của một công ty, nhưng trên thực tế, nó hầu như không được sử dụng vì nó không phải là một phương pháp hiệu quả cả về lý thuyết lẫn thực tế. Về lý thuyết, chỉ số Lemer không đưa ra sự so sánh cạnh tranh ngoại trừ mức giá trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo (tại đó mức giá cạnh tranh đúng bằng chi phí cận biên - MC). về mặt thực tiễn, việc xác định chi phí biên của sản phẩm vào bất kì thời điểm nào cũng không phải dễ dàng, nêu như không đo được hoặc ít nhất là ước tính một cách hợp lí được chi phí biên thì không thể tính được chỉ số này. Ngoài ra, các yếu tố ngoại lai như sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng hay chi phí đầu vào cũng có thể mang đến những thay đổi ngoạn mục. Thay vào đó, kinh nghiệm thực thi luật cạnh tranh của các nước cho thấy việc xác định sức mạnh thị trường thường bao gồm việc xem xét rất nhiều yếu tố và dữ liệu về xác định thị trường liên quan, cấu trúc thị trường, các điều kiện gia nhập thị trường hay mở rộng sản xuất, tình hình tài chính của các doanh nghiệp, sức mạnh của người mua... * So lượng các nhà cung cấp cạnh tranh đổi với cùng một sản phẩm, thị phần và mức độ tập trung Trước hết, quan niệm cho rằng số lượng các nhà cung cấp cạnh tranh với nhau trên thị trường quyết định mức độ cạnh tranh trên thị trường ấy (tức là có càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì sức ép cạnh tranh càng lớn) không hoàn toàn đúng. Nếu tính chất của thị trường cho phép các doanh nghiệp canh tranh với nhau có thể thông đồng và duy trì giá cả với nhau (ví dụ trong thị trường nơi giá cả của các doanh nghiệp đều được công bố rõ ràng và công khai), khi đó, cạnh tranh sẽ bị triệt tiêu mặc dù có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trên thị trường; ngược lại, hai hay vài doanh nghiệp lại có thể cạnh tranh với nhau rất gay gắt trên thị trường khác. Hơn nữa, nếu việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường là tương đối dễ dàng và không tốn kém, thì ngay cả một nhà độc quyền cũng không thể tự ý tăng giá cao hơn mức giá cạnh tranh vì khả năng các hãng khác tham gia thị trường sẽ có tác dụng hạn chế việc tăng giá đó. Thị phần cũng không phải là yếu tố duy nhất quyết định mức độ cạnh tranh trên thị trường. Khi các rào cản mở rộng sản xuất của các công ty hiện tại trên thị trường thấp, thị phần hiện tại của công ty không phản ánh sức mạnh thị trường của nó. Thị phần của công ty càng biến động thì càng chứng tỏ thị phần của công ty (dù lớn) chỉ là tạm thời và cho thấy có sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường này, tức là một công ty có thể nắm giữ rất ít sức mạnh thị trường mặc dù có thị phần lớn. Tuy nhiên, công cụ phổ biến nhất được sử dụng để xác định sức mạnh thị trường là thị phần hoặc mức độ tập trung. Ví dụ: Ủy ban Châu Âu sẽ xem xét sức mạnh thị trường của một công ty khi công ty đó có thị phần từ 40% trở lên. Tóm lại, thị phần cao chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để xác định một công ty (một nhóm) có sức mạnh thị trường hay không. Để xác định mức độ tập trung của thị trường, hai công cụ được sử dụng phổ biến nhất là tỷ lệ tập trung và Chỉ số Heríindhal-Hirschman (HHI). Tỷ lệ tập trung (CR) cung cấp một chỉ số thống kê đơn giản về mức độ tập trung của thị trường. Tỷ lệ tập trung của 2 công ty lớn nhất thị trường sẽ được viết tắt là CR2, của 4 công ty lớn nhất thị trường sẽ được viết tắt là CR4... và tỷ lệ này cho biết tổng thị phần của các công ty này nhân danh thị trường. Việc sử dụng tỷ lệ nồng độ có hai hạn chế chính sau: Đầu tiên là tỷ lệ này không phản ánh quy mô của từng công ty có liên quan. Một thị trường có 4 hãng, mỗi hãng chiếm 20% thị phần, sẽ có mức độ tập trung tương tự như một thị trường có 4 hãng, mỗi hãng lần lượt chiếm 55%, 20%, 3% và 2% (mặc dù có thể mức độ cạnh tranh của 2 thị trường là hoàn toàn khác nhau). Thứ hai, tỷ lệ này không chỉ ra số lượng của tất cả các công ty trên thị trường liên quan hoặc thị phần của các công ty nhỏ. Để khắc phục nhược điểm này của tỷ lệ tập trung, cơ quan cạnh tranh của các nước thường áp dụng tỷ lệ tập trung kết hợp với chỉ số HHI. Chỉ số HHI, thường được sử dụng trong phân tích các vụ sáp nhập theo chiều ngang, xem xét tất cả các công ty trong một ngành và được tính bằng tổng bình phương thị phần của tất cả các công ty trong thị trường liên quan để xác định mức độ tập trung trong thị trường đó. Chỉ số này sẽ dao động trong khoảng từ 0 đến 10.000 Các nhà kinh tế cho rằng chỉ số HHI càng cao thì mức độ tập trung của thị trường càng lớn (tức là mức độ cạnh tranh càng thấp). HHI là 10.000 có nghĩa là một công ty có vị trí độc quyền trên thị trường đó. Trong các vụ sáp nhập, cơ quan cạnh tranh tính toán HHI trên thị trường liên quan trước và sau khi sáp nhập, sau đó so sánh hai yếu tố này để đưa ra quyết định sơ bộ về tác động tiềm tàng của giao dịch sáp nhập đối với cạnh tranh. Các giao dịch có HHI hậu sáp nhập thấp (dưới 1000) thường được miễn trừ vì các giao dịch đó được coi là không có khả năng tạo ra hoặc tăng sức mạnh thị trường. Ngược lại, khi chỉ số HHI sau khi sáp nhập cao (trên 1800), vụ sáp nhập sẽ được coi là có khả năng tạo ra hay tăng cường sức mạnh thị trường và sẽ bị cấm trừ phi các doanh nghiệp có liên quan có thể chứng minh rằng vụ sáp nhập sẽ không có khả năng tạo ra hay tăng cường sức mạnh thị trường dựa trên dữ liệu về mức độ tập trung trên thị trường cũng như thị phần. * Rào cản gia nhập thị trường (Barriers to entry) Các phân tích về cạnh tranh đã chỉ ra rằng khả năng gia nhập thị trường của các công ti mới sẽ tạo ra sự kiềm chế mạnh mẽ đối với hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện có, ngăn cản các doanh nghiệp này (kể cả các doanh nghiệp có thị phần cao) thực hiện sức mạnh thị trường của mình. Nếu rào cản gia nhập thị trường không đáng kể thì rất có thể các doanh nghiệp hiện có sẽ không thu được lợi nhuận từ việc tăng giá lên trên mức giá cạnh tranh bởi điều này sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường và lại đẩy giá cả xuống thấp - dù là ngay lập tức hay sau một thời gian. Rào cản gia nhập thị trường phát sinh khi một doanh nghiệp có lợi thế hơn (không hẳn là do hoạt động hiệu quả hơn) so với các doanh nghiệp tiềm năng từ việc gia nhập thị trường trước và/hoặc từ việc có được những đặc quyền (chẳng hạn về sản xuất hay phân phối) hoặc từ việc có sự ưu tiên trong việc tiếp cận các yếu tố đầu vào của sản xuất. Để đánh giá về rào cản gia nhập thị trường nhất định, những yếu tố sau đây thường được xem xét: - Chi phí chìm (sunk cost): Chi phí chìm được hiểu là những chi phí mà doanh nghiệp buộc phải bỏ ra để gia nhập thị trường nhưng lại không có khả năng thu hồi khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường ấy, ví dụ như chi phí quảng cáo, chi phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và chế tạo sản phẩm (RandD)... Những người mới tham gia sẽ chỉ tham gia vào một thị trường nếu lợi nhuận ước tính từ thị trường đó lớn hơn chi phí gia nhập chìm. - Tiếp cận các đầu vào quan trọng và các kênh phân phối: Việc gia nhập thị trường có thể bị hạn chế nếu việc tiếp cận các đầu vào quan trọng và các kênh phân phối khó khăn và các doanh nghiệp hiện tại nắm giữ quyền sở hữu hoặc đặc quyền đối với các đầu vào hoặc đầu ra của sản xuất. - Quy định pháp lý: Quy định pháp luật cũng có thể trở thành rào cản gia nhập thị trường (ví dụ, quy định pháp lý có thể hạn chế số lượng công ty có thể hoạt động trong một thị trường nhất định thông qua cơ chế cấp phép của nhà nước). Hiệu quả quy mô: Hiệu quả quy mô xảy ra khi chi phí trung bình giảm khi sản lượng tăng. Trong một thị trường mà các công ty hiện tại đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô, những công ty mới tham gia cũng sẽ cần phải tăng sản lượng để cạnh tranh, điều này cũng làm tăng chi phí chìm khi gia nhập và có thể gây ra phản ứng cạnh tranh gay gắt từ các công ty hiện tại. Trong một số trường hợp, những yếu tố này sẽ trở thành rào cản gia nhập thị trường. - Hiệu ứng mạng: Hiệu ứng mạng xảy ra khi càng nhiều người tham gia vào mạng thì mạng càng được nhiều người yêu thích. Ví dụ, càng nhiều người tham gia vào một mạng điện thoại di động thì mạng đó càng có giá trị vì người dùng được kết nối với nhiều người hơn trên cùng một mạng di động. Hiệu ứng mạng lưới, chẳng hạn như tính kinh tế theo quy mô, có thể khiến việc gia nhập thị trường trở nên khó khăn hơn nếu quy mô cạnh tranh tối thiểu tương đối lớn so với quy mô thị trường chung. Hành vi loại trừ: Thuật ngữ này được sử dụng để chỉ bất kỳ hành vi phản cạnh tranh nào nhằm gây hại cho cạnh tranh hiện tại hoặc tương lai. Bản thân những hành vi này cũng có thể tạo thành rào cản gia nhập thị trường. Ví dụ: các doanh nghiệp hiện tại có thể hạn chế hoặc ngăn chặn những người mới tham gia vào thị trường bằng cách đe dọa bán hàng hóa hoặc dịch vụ của họ* hoặc thiết lập hợp đồng độc quyền với hầu hết các kênh bán lẻ trong một thị trường địa lý nhất định... Việc xem xét, đánh giá các rào cản gia nhập thị trường và lợi ích mà chúng mang lại cho các doanh nghiệp hiện tại là công việc phức tạp, đòi hỏi nhiều bước khác nhau. Ví dụ: cần phải hỏi các doanh nghiệp hiện tại và tiềm năng về chi phí chìm ước tính khi tham gia thị trường, khó khăn trong việc có được các đầu vào và kênh phân phối thiết yếu, khả năng các yêu cầu quy định có thể ảnh hưởng đến việc gia nhập, chi phí tối thiểu để có thể hoạt động ở quy mô cạnh tranh và có thể là bất kỳ yếu tố nào khác cản trở gia nhập. * Trở ngại mở rộng thị trường (barriers to expand) Rào cản mở rộng thị trường là tất cả các yếu tố ngăn cản một doanh nghiệp hiện tại trên thị trường không thể mở rộng quy mô sản xuất một cách nhanh chóng và hiệu quả. Do đó, không giống như các rào cản gia nhập thị trường, các rào cản mở rộng sản xuất liên quan đến khả năng của các doanh nghiệp hiện tại trong việc tạo ra áp lực thị trường (nhưng không tiềm năng) cạnh tranh đối với một hoặc nhiều doanh nghiệp khác. Nếu các công ty hiện tại không gặp phải những rào cản đáng kể đối với việc mở rộng thị trường, họ có thể phản ứng nhanh chóng với việc tăng giá của một công ty khác bằng cách tăng sản lượng và làm cho nó không có lãi. Việc phân tích các rào cản gia nhập thị trường đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cạnh tranh bởi vì ngay cả khi các rào cản gia nhập cao, các rào cản mở rộng thị trường có thể thấp và do đó sẽ là sai lầm khi kết luận rằng một công ty có thị phần lớn có sức mạnh thị trường chỉ dựa trên các rào cản gia nhập cao. Trong trường hợp này cần nghiên cứu rào cản mở rộng thị trường, nếu rào cản này thấp đối với các công ty hiện có chứng tỏ công ty có thị phần lớn nhưng cũng không có sức mạnh thị trường. Phân tích rào cản gia nhập thị trường cũng được thực hiện tương tự như phân tích rào cản gia nhập thị trường. Các yếu tố ảnh hưởng tới rào cản gia nhập thị trường như chi phí chìm, các quy định pháp lí, khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào chủ chốt và các kênh phân phổi... cũng có thể ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị phần và khả năng tác động tới cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện tại. * Sức mạnh của người mua (Buyer power) Sẽ là không đầy đủ nếu chỉ phân tích các dấu hiệu của sức mạnh thị trường từ phía các nhà cung cấp bởi vì sức mạnh của người mua cũng có thể trở thành yếu tố quan trọng để xác định việc một hay một số nhà cung cấp có đang nắm sức mạnh thị trường hay không. Khi bên mua có đủ sức mạnh thị trường làm đối trọng với sức mạnh của bên bán thì bên bán không còn khả năng tăng giá hàng hoá hay dịch vụ của mình trên mức giá cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận nữa bởi lẽ bên mua có thể đe dọa sẽ chuyển sang nhà cung cấp có mức giá thấp hơn. Sức mạnh của người mua chịu tác động của nhiều yếu tố như: Người mua có được thông tin đầy đủ về các nguồn cung cấp thay thế hay không, người mua có dễ dàng chuyển từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp kia hay không, người mua có thể tự đứng ra sản xuất mặt hàng đó hay tài ttợ cho doanh nghiệp khác sản xuất mặt hàng đó hay không, bản thân người mua đó có phải là kênh phân phối quan trọng của người bán hay không, người mua có khả năng tăng cường mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp bằng cách tổ chức đấu thầu cạnh tranh hay không... Nếu người mua có sức mạnh thị trường, người tiêu dùng sẽ có lợi nếu anh ta có thể thương lượng một mức giá thấp và chuyển nó cho người tiêu dùng. Ngược lại, việc một số người mua có quyền lực thị trường cũng có thể gây hại cho người tiêu dùng nếu những người mua nhỏ chịu giá cao hơn, điều này tiếp tục được chuyển sang người tiêu dùng; hay có sự thông đồng giữa người mua và người bán để duy trì giá cao... Như vậy, trong từng trường hợp cụ thể, cần phân tích các mối quan hệ hàng dọc trên thị trường để đánh giá chính xác khả năng tác động của người mua đến sức mạnh thị trường của nhà cung cấp. * Lợi nhuận thu được (lợi nhuận) Điều kiện tài chính và thu nhập của một công ty cũng có thể là bằng chứng cho thấy nó có sức mạnh thị trường. Ví dụ, dựa trên các dữ kiện khác của vụ việc, có thể suy luận một cách hợp lý rằng một công ty sẽ giữ được sức mạnh thị trường nếu nó liên tục đưa ra mức giá rất cao hoặc kiếm được nhiều lợi nhuận. Một điều cần lưu ý là giá cao hoặc tỷ suất lợi nhuận lớn thôi là chưa đủ để chứng minh sức mạnh thị trường của công ty, cũng như việc công ty có mức lợi nhuận thấp không có nghĩa là nó không có sức mạnh thị trường. Lợi nhuận lớn rất có thể là kết quả của quá trình chấp nhận rủi ro, đổi mới sản phẩm hoặc quản lý kinh doanh hiệu quả của công ty và nên được hoan nghênh trong thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu lợi nhuận đáng kể không phải là kết quả của quá trình cạnh tranh hiệu quả từ phía công ty, thì có khả năng là công ty có sức mạnh thị trường. * Quyền loại trừ đối thủ cạnh tranh Ngoài khả năng giữ giá cạnh tranh, các hãng có sức mạnh thị trường còn có khả năng tác động tiêu cực đến quá trình cạnh tranh bằng nhiều cách khác, như làm giảm tình trạng cạnh tranh hiện tại, nâng cao rào cản gia nhập thị trường, hoặc làm chậm quá trình cải tiến sản phẩm… Trên thế giới, khái niệm khả năng hạn chế cạnh tranh đã được nhắc đến cả trong nghiên cứu và trong phán quyết của tòa án các nước. Ví dụ, ở Du Pont, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã định nghĩa sức mạnh thị trường là khả năng kiểm soát giá cả hoặc loại bỏ cạnh tranh. Câu hỏi đặt ra là liệu có sự khác biệt thực sự nào giữa khả năng tăng giá trên mức cạnh tranh và khả năng loại bỏ cạnh tranh hay không bởi xét cho cùng, loại bỏ đối thủ cạnh tranh cũng là một biện pháp làm giảm cạnh tranh trên thị trường, từ đó giúp doanh nghiệp tăng giá. Câu trả lời là các công ty có thể thực hiện quyền lực thị trường của mình mà không cần tăng giá bằng cách loại bỏ khả năng đối thủ cạnh tranh có thể đổi mới và giới thiệu sản phẩm mới, người tiêu dùng sẽ phải chịu thiệt hại vì họ phải sử dụng một sản phẩm trong thời gian dài khi lẽ ra họ có thể mua một sản phẩm mới tốt hơn (ngay cả khi giá của sản phẩm cũ chưa tăng). Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, việc đánh giá sức mạnh thị trường dựa trên khả năng loại bỏ cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn là khả năng tăng giá của công ty. Điều này đặc biệt đúng khi công ty đã loại bỏ một cách hiệu quả đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm ẩn khỏi thị trường, khi việc phân tích khả năng tăng giá so với đối thủ cạnh tranh có thể không còn cần thiết nữa.
3. Sức mạnh thị trường tên tiếng Anh
“Market power”: sức mạnh của thị trường
4. Sức mạnh thị trường được quy định trong luật cạnh tranh
“Điều 26. Xác định sức mạnh thị trường đáng kể 1. Sức mạnh thị trường đáng kể của công ty, nhóm công ty được xác định trên cơ sở một số yếu tố sau
: a) Tương quan thị phần giữa các doanh nghiệp trên thị trường liên quan;
- b) sức mạnh tài chính và quy mô của doanh nghiệp;
- c) Rào cản gia nhập và mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp khác;
- d) Khả năng làm chủ, tiếp cận và kiểm soát thị trường phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ hoặc cung ứng hàng hóa, dịch vụ;
đ) Lợi thế về công nghệ và hạ tầng kỹ thuật;
- e) Quyền sở hữu, nắm giữ và tiếp cận cơ sở hạ tầng;
- g) Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng quyền sở hữu trí tuệ;
- h) Khả năng chuyển sang cung hoặc cầu hàng hóa, dịch vụ khác có liên quan
- i) Yếu tố đặc thù của ngành, lĩnh vực mà công ty hoạt động.
- Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
5. Ý nghĩa của sức mạnh thị trường
– Một công ty nắm giữ sức mạnh thị trường đáng kể có khả năng thao túng giá thị trường và do đó kiểm soát tỷ suất lợi nhuận của nó, và có thể tăng rào cản đối với những người mới tham gia thị trường.
– Các công ty có sức mạnh thị trường thường được gọi là "nhà tạo giá" vì họ có thể đặt hoặc điều chỉnh giá thị trường của một mặt hàng mà không bị mất thị phần. Sức mạnh thị trường còn được gọi là sức mạnh định giá. Do đó, điều quan trọng là sức mạnh thị trường chỉ phát sinh trong mối quan hệ với thị trường. Sức mạnh thị trường có nghĩa là một công ty có sức mạnh thị trường được bảo vệ khỏi các đối thủ cạnh tranh tiềm năng bị ngăn cản tham gia thị trường.
Nội dung bài viết:
Bình luận