điều kiện cải tạo không giam giữ
1. Điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 36 BLHS là một trong bảy loại hình phạt chính và thuộc nhóm các hình phạt không giam giữ; Hình phạt này nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng nặng hơn hình phạt tiền và cảnh cáo.
Để được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, người phạm tội phải có đủ hai điều kiện sau: Người phạm tội phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng; Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng.
Thời hạn của hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm.
Cải tạo không giam giữ cũng là một trong bốn hình phạt chính áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 98 và Điều 100 BLHS. Ngoài điều kiện chung (có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng quy định tại Điều 36 BLHS), Điều 100 BLHS quy định cụ thể về điều kiện cho phép áp dụng hình phạt này đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong hai trường hợp:
- Đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng nếu tội phạm đã thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng.
- Đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng nếu họ phạm tội rất nghiêm trọng.
Cần lưu ý trong việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người đủ 18 tuổi và người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi như sau:
Đối với người từ đủ 18 tuổi trở lên bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ sẽ bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước, việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng (một số trường hợp đặc biệt có thể được miễn việc khấu trừ thu nhập, không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự). Trong trường hợp không có hoặc mất việc làm, người bị kết án phải lao động phục vụ cộng đồng không quá 4 giờ trong một ngày và không quá 5 ngày trong một tuần. Việc buộc lao động này không được áp dụng đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 6 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người bị khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ thì không bị trừ thu nhập và thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi không quá thời hạn do pháp luật quy định.
2. Một số tồn tại, hạn chế
Có thể nói, Điều 36 và Điều 100 BLHS đã quy định khá rõ ràng về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội là người trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, việc ra quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc.
2.1. Thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ là bao lâu?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 02/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 thì “Thời điểm bắt đầu tính thời hạn cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục người bị kết án nhận quyết định thi hành án và bản sao bản án. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn cải tạo không giam giữ phải được ghi trong phần quyết định của bản án. Tuy nhiên, Nghị quyết 02/2010/NQ-HĐTP đã được đưa vào danh mục văn bản hết hiệu lực thi hành trong tất cả các lĩnh vực của tòa án nhân dân, theo quy định tại Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 8/10. chưa có văn bản mới hướng dẫn về vấn đề này nên gặp nhiều khó khăn trong việc khai báo thời điểm bắt đầu áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Hiện nay, có hai quan điểm về cách tính thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Áp dụng tinh thần Nghị quyết 02/2010/NQ-HĐTP thì thời điểm bắt đầu tính thời gian chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục người bị kết án nhận quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Quan điểm thứ hai cho rằng thời điểm bắt đầu tính thời hạn của bản án cải tạo không giam giữ là ngày người bị kết án chấp hành án.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi lẽ theo quy định tại Điều 96 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, Toà án phải gửi quyết định cho các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án. Đồng thời theo Điều 97 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định về thi hành quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ thì “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải triệu tập người chấp hành án, người đại diện trong trường hợp người chấp hành án là người dưới 18 tuổi đến trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc để cam kết việc chấp hành án. Người chấp hành án, người đại diện của người chấp hành án phải có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan…”.
Trên thực tế, có trường hợp người bị kết án khi được triệu tập lần đầu vì lý do khách quan nên họ không thể có mặt tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú để làm cam kết việc chấp hành án; do đó việc thi hành quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ đối với người bị kết án chưa được thực hiện, vì vậy không thể tính thời điểm chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ kể từ ngày Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Do vậy, việc tính thời điểm chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ kể từ khi người bị kết án chấp hành án là hợp lý. 2.2.Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do lỗi do cố ý của pháp luật hoặc quy định của pháp luật. không quy định về phạt cải tạo không giam giữ, cách tính thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội?
2.3.Hiểu thế nào về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ “xét thấy việc cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội là vô ích”?
Đối với điều kiện không nhất thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền dẫn đến sự tùy tiện trong nhận thức và áp dụng của Tòa án khi ra phán quyết.
Nhiều trường hợp Tòa án còn chần chừ trong việc xem xét, đánh giá để thi hành án và bỏ qua vấn đề này khi quyết định hình phạt, dẫn đến thiệt thòi cho người phạm tội khi phải chịu các mức án khác nghiêm khắc hơn, trong khi đủ điều kiện để áp dụng và chỉ áp dụng không cải tạo giam giữ phù hợp với tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội.
Nội dung bài viết:
Bình luận