Điều 37 Bộ Luật dân sự 2015

Quy định về quyền chuyển đổi giới tính trong Bộ luật Dân sự 2015 là một điểm mới đáng chú ý. Cho đến trước khi Bộ luật Dân sự 2015 ra đời, pháp luật Việt Nam chưa quy định hay công nhận việc chuyển giới bằng phẫu thuật mà chỉ quy định về xác định lại giới tính đối với những trường hợp khi sinh ra có sự xác định nhầm giới tính tự nhiên của cá nhân. Cụ thể, Điều 36 Bộ Luật dân sự 2005 chỉ cho phép trường hợp một người chỉ được quyền yêu cầu xác định lại giới tính của mình khi họ có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa định hình chính xác. Có thể nói, quy định của Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể là tại Điều 37 Bộ luật Dân sự 2015 có phần tiến bộ, phù hợp với thời đại khi càng ngày quyền bình đẳng của con người càng được nêu cao, dù ở bất kì giới tính nào đi chăng nữa mọi người cũng cần phải có quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền sống đúng với giới tính của mình và để họ thực hiện được các quyền này, pháp luật phải có cơ chế để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của họ.

Phan Biet Chuyen Doi Gioi Tinh Va Xac Dinh Lai Gioi Tinh

Điều 37 Bộ Luật dân sự 2015

 

1. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch

Điều 37 Bộ Luật dân sự 2015 đã chính thức ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính với tư cách là một quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân. Theo đó, “chuyển đổi giới tính” lại dùng để chỉ trường hợp cá nhân có nhận thức về giới tính khác với giới tính sinh học của mình, tức là về mặt tự nhiên, người chuyển giới hoàn toàn bình thường. Chuyển đổi giới tính là một hoạt động phức tạp và tạo ra hệ quả to lớn do đó không thể chỉ gói gọn trong một điều luật mà cần được quy định cụ thể trong văn bản luật chuyên biệt, trong khi vấn đề xác định lại giới tính cho đến nay vẫn chỉ được cụ thể hóa bằng nghị định và thông tư.

Điều 37 còn giải quyết các vấn đề hộ tịch của cá nhân đã chuyển đổi giới tính: Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Như vậy việc đăng ký thay đổi hộ tịch vừa là quyền vừa là nghĩa vụ dành cho cá nhân đã chuyển đổi giới tính. Khi quyền chuyển đổi giới tính tại Việt Nam chưa được thừa nhận, đã có không ít cá nhân tự thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới tính (đa phần tại nước ngoài) và gặp khó khăn trong các vấn đề về hộ tịch mà cụ thể là việc thay đổi tên. Tuy nhiên, với vai trò là đạo luật quy định những vấn đề chung, các quy định của Bộ Luật dân sự 2015 cần được cụ thể hóa bằng các văn bản chuyên biệt như luật, nghị định, thông tư hướng dẫn… đặc biệt là trong vấn đề hộ tịch vốn khá phức tạp hiện nay.

2. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi

Nội dung cuối cùng được ghi nhận trong Điều 37 cho phép cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Chủ thể sau khi thực hiện chuyển đổi giới tính mang một giới tính mới, kéo theo những hệ quả về quyền và nghĩa vụ liên quan trong nhiều lĩnh vực pháp luật như hôn nhân gia đình, lao động, luật nghĩa vụ quân sự… Với quy định này, người sau khi chuyển đổi giới tính sẽ được hưởng các quyền tương ứng với giới tính mới của họ. Điều này về mặt nguyên tắc là phù hợp nhưng triển khai trên thực tế lại không dễ dàng, đòi hỏi quy định đồng bộ trong các lĩnh vực có liên quan, tránh trường hợp cá nhân đã chuyển đổi giới tính trên thực tế nhưng lại không được hưởng các quyền lợi chính đáng tương ứng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình, có cho phép vợ/chồng (người đã kết hôn) tiến hành chuyển đổi giới tính hay không? Nếu có, hệ quả sau khi chuyển đổi sẽ được giải quyết thế nào? Nếu một trong hai bên vợ, chồng tiến hành chuyển đổi giới tính, quan hệ hôn nhân lúc này có thể trở thành quan hệ giữa những người cùng giới tính, vấn đề ly hôn giữa các chủ thể này được giải quyết như thế nào? Hay như trong mối quan hệ với con cũng cần phải đặt ra vì cá nhân chuyển đổi giới tính có thể đã có con trước khi chuyển giới. Vấn đề đặt ra là một khi giới tính của người đã có con được chuyển đổi thì việc chuyển đổi giới tính này có hệ quả gì trong mối quan hệ giữa người chuyển giới và người con? Trong mối quan hệ với người con, một người trước đây là cha (vì là nam) nhưng nay người này chuyển giới thành nữ thì có được đổi thành mẹ không?....

Cách quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 đang theo hướng đảm bảo cho cá nhân có quyền chuyển đổi giới tính cũng như giải quyết các vấn đề có liên quan như thay đổi tên, hộ tịch, giấy tờ…Tuy nhiên, quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ mang tính nguyên tắc và Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rõ, việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Do đó, cho đến khi nào Quốc hội ban hành luật về chuyển đổi giới tính thì các cá nhân mới có thể chính thức hiện thực hóa quyền này trên thực tế. Yêu cầu đặt ra khi xây dựng Luật Chuyển đổi giới tính đó là tạo ra một hành lang pháp lý điều chỉnh các vấn đề có liên quan, trong đó trước hết là cụ thể hóa quy định chung tại Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bên cạnh việc bảo vệ quyền con người, quyền nhân thân, các quy định của Luật Chuyển đổi giới tính cần tính đến các vấn đề chuyên môn như áp dụng biện pháp y tế, bảo vệ sức khỏe, một số lĩnh vực pháp luật có liên quan và đặc biệt cần đảm bảo dung hòa với yếu tố văn hóa, truyền thống của dân tộc.

 

Việc ghi nhận quyền chuyển đổi giới tính trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người chuyển giới, điều này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về quy định tại Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để tham khảo. Trong quá trình tìm hiểu nếu như quý bạn đọc còn thắc mắc cần giải đáp, vui lòng truy cập trang web: https://accgroup.vn để được trao đổi cụ thể.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo