Điều 27 công ước luật biển 1982

1. Khuôn khổ pháp lý toàn diện và công bằng

Trước UNCLOS năm 1982, năm 1958, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị Luật Biển lần thứ nhất và đạt được khuôn khổ pháp lý quốc tế đầu tiên điều chỉnh các vấn đề về biển và đại dương thông qua bốn Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, thềm lục địa, biển cả, đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả và một Nghị định thư về giải quyết tranh chấp(3). Đây là một bước tiến lớn nhằm thiết lập một trật tự pháp lý quốc tế đầu tiên trên biển, điều hòa các lợi ích khác biệt giữa các quốc gia ven biển và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, các Công ước năm 1958 bộc lộ nhiều điểm hạn chế.

Thứ nhất, việc xác định ranh giới các vùng biển chưa hoàn tất do các quốc gia chưa thống nhất được về chiều rộng của lãnh hải và vùng đánh cá. Thứ hai, việc phân chia quyền và lợi ích trên biển thiên về bảo vệ lợi ích của các quốc gia phát triển, bỏ qua lợi ích của các quốc gia đang phát triển và gặp bất lợi về mặt địa lý(4)Thứ ba, phần đáy biển quốc tế nằm ngoài giới hạn thềm lục địa của các quốc gia ven biển hoàn toàn bị bỏ ngỏ, chưa được điều chỉnh bởi các quy định pháp lý quốc tế. Thứ tư, nghị định thư về giải quyết tranh chấp bó hẹp lựa chọn bắt buộc giải quyết thông qua Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) nên không nhận được sự ủng hộ rộng rãi(5)Thứ năm, mặc dù đã lường trước được vấn đề về suy thoái và ô nhiễm môi trường biển, việc chỉ quy định về bảo tồn tài nguyên sinh vật biển tại biển cả là chưa đầy đủ cả về các nguồn gây ô nhiễm, phạm vi xảy ra ô nhiễm và các biện pháp chế tài để xử lý vi phạm về ô nhiễm môi trường biển.

UNCLOS năm 1982 đã khắc phục những điểm hạn chế của các Công ước năm 1958 và tạo dựng một khuôn khổ pháp lý công bằng, hài hòa lợi ích của các nhóm nước khác nhau như giữa những nước có biển và không có biển, hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý giữa nước phát triển và các nước đang phát triển, kém phát triển.

Cụ thể, lần đầu tiên UNCLOS năm 1982 đã hoàn chỉnh các quy định về xác định ranh giới các vùng biển từ nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển cả và Vùng (đáy biển quốc tế). Đặc biệt, chế độ vùng đặc quyền kinh tế ra đời là kết quả của việc bảo vệ các đặc quyền về kinh tế của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia mới giành được độc lập trong phong trào giải phóng dân tộc vào những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là chế định pháp lý lần đầu tiên được quy định có tính tới đặc thù phân bổ tự nhiên của các tài nguyên sinh vật biển trong phạm vi 200 hải lý(6) và thiết lập công bằng cho tất cả quốc gia, loại trừ các quy định dựa trên quyền đánh bắt cá truyền thống, lịch sử do các quốc gia có điều kiện khoa học - kỹ thuật phát triển thiết lập kể từ trước khi Công ước ra đời.

Với thềm lục địa, UNCLOS năm 1982 quy định các tiêu chí xác định ranh giới thềm lục địa dựa trên các tiêu chí khách quan về mặt địa lý trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đất thống trị biển. Theo đó, thềm lục địa là một khái niệm địa chất, là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của các quốc gia ven biển. Vì vậy, tối thiểu các quốc gia có thể xác định chiều rộng vùng thềm lục địa pháp lý là 200 hải lý kể từ đường cơ sở. Các quốc gia có thềm lục địa tự nhiên rộng hơn 200 hải lý được phép xác định thềm lục địa pháp lý mở rộng(7). Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố công bằng, khách quan, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa (CLCS)(8) của Liên hợp quốc sẽ có thẩm quyền xem xét phương pháp xác định thềm lục địa mở rộng của các quốc gia ven biển và chỉ những ranh giới thềm lục địa mở rộng nào được xác định phù hợp với khuyến nghị của (CLCS) mới có giá trị ràng buộc và nhận được sự công nhận từ các quốc gia khác.

Quyền lợi của các quốc gia không có biển hoặc gặp bất lợi về mặt địa lý cũng được tính tới khi một loạt quy định về quá cảnh, khai thác lượng đánh bắt cá dư được quy định trong quy chế về vùng đặc quyền kinh tế(9). Bên cạnh đó, đặc thù của các quốc gia quần đảo cũng lần đầu tiên được xem xét và pháp điển hóa thành quy chế pháp lý của quốc gia quần đảo(10).

Đặc biệt, bên cạnh việc kế thừa quy định tự do biển cả, UNCLOS năm 1982 lần đầu tiên xây dựng quy chế pháp lý về Vùng với đặc trưng là di sản chung của nhân loại. Trong đó, Cơ quan quyền lực đáy đại dương (ISA) được thành lập để xây dựng quy chế về khai thác tài nguyên tại Vùng và phân bổ lợi ích công bằng tới các quốc gia thành viên(11). Hiệp định về thực hiện phần XI cũng đã được ký kết vào năm 1994 để bổ sung các quy định cụ thể về quản lý và khai thác Vùng cho UNCLOS năm 1982.

2. Cơ chế hòa bình giải quyết các tranh chấp biển

Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Theo đó, tranh chấp phải được giải quyết thông qua các biện pháp như đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án và các tổ chức khu vực và quốc tế hoặc bất kỳ biện pháp hòa bình nào khác do các bên tự lựa chọn(12). UNCLOS năm 1982 đã tái khẳng định tinh thần của nguyên tắc này, đồng thời khéo léo kết hợp các biện pháp hòa bình để tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với đặc thù của các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước.

Theo đó, UNCLOS năm 1982 dành ưu tiên cho những thỏa thuận về các biện pháp giải quyết tranh chấp mà các bên đã thống nhất từ trước. Nếu không tồn tại thỏa thuận sẵn có về biện pháp giải quyết tranh chấp, UNCLOS năm 1982 yêu cầu các bên đàm phán trực tiếp thông qua quy định trao đổi quan điểm là một biện pháp bắt buộc. Bên cạnh đó, UNCLOS năm 1982 khuyến khích các bên sử dụng biện pháp hòa giải như là một lựa chọn tự nguyện nhằm tạo điều kiện cho đàm phán trực tiếp.

Tuy nhiên, trao đổi quan điểm bắt buộc không có giá trị vô thời hạn. Công ước chỉ yêu cầu các bên có nghĩa vụ trao đổi quan điểm trong một khoảng thời gian hợp lý(13). Quá thời hạn đó, nếu các bên không đạt được giải pháp để giải quyết tranh chấp, các cơ quan tài phán sẽ là lựa chọn tiếp theo. Để có thêm lựa chọn linh hoạt, UNCLOS năm 1982 quy định các bên có thể tuyên bố lựa chọn một trong bốn cơ quan tài phán, bao gồm: Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), Tòa Luật Biển quốc tế (ITLOS), Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII và Trọng tài thành lập theo Phụ lục VIII(14). Trong đó, ngoài ICJ là tòa án được thành lập bên cạnh Liên hợp quốc từ năm 1945, các thể chế còn lại đều được thành lập mới theo quy định của UNCLOS năm 1982. Điểm đặc biệt là, UNCLOS năm 1982 tạo ra một cơ chế mặc định mang tính chất tự động. Theo đó, nếu các bên không đưa ra tuyên bố lựa chọn cơ quan tài phán, hoặc lựa chọn các cơ quan khác nhau thì Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII là cơ quan có thẩm quyền bắt buộc để giải quyết tranh chấp.

Quy định cơ chế mặc định này vừa bảo đảm sự linh hoạt trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa bảo đảm hiệu quả khi một bên có thể sử dụng quyền đơn phương khởi kiện Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII để giải quyết các tranh chấp với một quốc gia thành viên khác về những bất đồng liên quan đến việc giải thích và thực thi UNCLOS năm 1982. Quyền đơn phương khởi kiện được quy định trên cơ sở UNCLOS năm 1982 là một Công ước cả gói, các quốc gia thành viên khi phê chuẩn Công ước không được phép bảo lưu bất kỳ điều khoản nào, và do vậy, đã tự nguyện ràng buộc với thẩm quyền bắt buộc của cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định tại Phần XV của Công ước.

Tuy nhiên, để tạo thêm sự linh hoạt cho cơ chế giải quyết tranh chấp, và cũng là để khắc phục hạn chế về quy định cứng của Nghị định Giải quyết tranh chấp năm 1958 (dẫn tới việc nhiều quốc gia không phê chuẩn), UNCLOS năm 1982 quy định thêm những ngoại lệ và hạn chế. Theo đó, những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về việc thi hành quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển đương nhiên thuộc phạm vi loại trừ khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán(15). Các tranh chấp liên quan đến phân định biên giới, ranh giới biển, hoạt động quân sự của tàu thuyền, hoặc đang được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xem xét cũng thuộc phạm vi loại trừ theo lựa chọn khỏi các cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc của các cơ quan tài phán(16). Theo đó, nếu quốc gia thành viên ra tuyên bố loại trừ ba loại tranh chấp được lựa chọn này, các quốc gia khác không được phép khởi kiện các tranh chấp này ra các cơ quan tài phán theo quy định của Công ước.

Mặc dù được loại trừ đương nhiên hoặc theo lựa chọn một số tranh chấp khỏi phạm vi giải quyết tranh chấp bắt buộc thông qua các cơ quan tài phán, các quốc gia thành viên vẫn có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình khác, trong đó có nghĩa vụ trao đổi quan điểm. Đặc biệt, UNCLOS năm 1982 quy định với những tranh chấp được loại trừ này, một bên có thể đơn phương yêu cầu áp dụng biện pháp hòa giải bắt buộc để đưa ra khuyến nghị về các biện pháp giải quyết tranh chấp.

Có thể nói, với những quy định linh hoạt, sáng tạo, UNCLOS năm 1982 đã tạo ra một cơ chế giải quyết tranh chấp với nhiều tầng nấc, vừa bảo đảm sự linh hoạt, quyền tự do lựa chọn của các bên về biện pháp, cơ quan giải quyết tranh chấp, vừa tạo điều kiện thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp của các bên. Đặc biệt, cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS năm 1982 là cơ chế đầu tiên tiên phong quy định quyền đơn phương khởi kiện của quốc gia thành viên ra một cơ quan tài phán quốc tế. Nhờ quy định này, nhiều tranh chấp giữa các quốc gia trên biển đã được giải quyết và thu hẹp bất đồng giữa các quốc gia. Kể từ khi UNCLOS năm 1982 ra đời, 29 tranh chấp biển đã được giải quyết thông qua ICJ, 18 tranh chấp đã được giải quyết thông qua ITLOS và 11 tranh chấp đã được giải quyết thông qua Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII.

3. ĐIỀU 27 - Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài

1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:

a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;

b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;

c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc

d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.

2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.

3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.

4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.

5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vị phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo