Dịch vụ công an sinh xã hội

1. Một số câu hỏi về dịch vụ công và an sinh xã hội 

 Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với dịch vụ công. Theo nghĩa chung nhất, công vụ  bao gồm các hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng và xã hội do Nhà nước hoặc khu vực tư nhân được ủy quyền đảm nhận (Dictionnaire Petit Larousse, Pháp, 1995). Dịch vụ công cũng có thể được hiểu  là các hoạt động trợ giúp công  do nhà nước hoặc các cơ quan chính thức cung cấp. Các hoạt động này phi lợi nhuận, nhằm hỗ trợ các thành viên trong xã hội (Oxford Dictionary, 2000). Ứng dụng CNTT sẽ giúp ngành BHXH triển khai hiệu quả các dịch vụ công 

 Ở Việt Nam cũng có  tác giả đưa ra khái niệm công vụ. Theo Đinh Văn An và Hoàng Thu Hoa (2006), dịch vụ công là hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, xã hội do nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc ủy quyền và có sự hỗ trợ của khu vực tư nhân. . Theo Lê Chi Mai (2004), dịch vụ công là hoạt động phục vụ  lợi ích chung thiết yếu,  quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức do nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc giao cho  cơ sở ngoài nhà nước  nhằm bảo đảm  trật tự và công bằng xã hội. Theo bà Nguyễn Thị Lan Hương, dịch vụ công có thể  hiểu là  dịch vụ do nhà nước  hoặc cá nhân được nhà nước ủy quyền trực tiếp đảm nhận, cung ứng không vì mục đích lợi nhuận, nhằm đáp ứng nhu cầu, quyền và nghĩa vụ cơ bản của  tổ chức, công dân nhằm bảo đảm  trật tự và công bằng xã hội. 

  Qua  cách nêu khái niệm  dịch vụ công nêu trên cho thấy dịch vụ công có bản chất chung là  phục vụ các nhu cầu, lợi ích chung thiết yếu của xã hội và người dân, không vụ lợi. Nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung cấp các dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết để đảm bảo sự công bằng trong việc phân phối các dịch vụ này và bù đắp những thiếu sót của thị trường. Sự khác biệt giữa các dịch vụ công chỉ  ở loại hình và cách thức thực hiện. 

  Tiếp cận  chức năng quản lý, dịch vụ công là hoạt động của cơ quan nhà nước nhằm thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và bảo đảm  cung ứng các dịch vụ đáp ứng nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Quan niệm này đề cao vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công.  Về lý thuyết, tiện ích là những tiện ích có đặc điểm tiêu dùng không độc quyền và không cạnh tranh. Không loại trừ có nghĩa là  mọi người đều có quyền sử dụng và tiêu dùng dịch vụ này, không loại trừ bất kỳ ai, cho dù họ có trả tiền cho dịch vụ đó hay không. Không cạnh tranh có nghĩa là việc sử dụng và tiêu dùng của một người  không làm giảm  hoặc ảnh hưởng đến việc sử dụng và tiêu dùng của  người khác. Các dịch vụ thể hiện hai đặc điểm trên là các tiện ích thuần túy, hay có thể gọi tắt là các tiện ích thuần túy. 

 Bên cạnh các dịch vụ công thuần túy, còn có  các dịch vụ không thuần túy hoặc bán công, gọi tắt là bán công. Đây là những dịch vụ không tự nhiên được sử dụng và tiêu dùng bởi tất cả mọi người, và việc sử dụng và tiêu dùng của một người cũng có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng và tiêu dùng của người khác ở một mức độ nào đó. 

 Công vụ có thể  hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. 

  Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là  hàng hóa và dịch vụ mà chính phủ can thiệp để cung cấp vì mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là toàn bộ các hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của chính phủ, bao gồm  các hoạt động hoạch định chính sách, hành pháp, tòa án…, các hoạt động chăm sóc sức khỏe, giáo dục và giao thông công cộng. 

 Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công  là  hàng hóa, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của  tổ chức, công dân mà nhà nước can thiệp  nhằm mục đích hiệu quả và công bằng.  Ở Việt Nam, tùy theo tính chất  và tác dụng của dịch vụ  cung cấp, có thể  chia dịch vụ công thành 3 nhóm cơ bản, đó là: i) dịch vụ hành chính công; ii) Dịch vụ  công phi thương mại; (iii) Tiện ích.  

 -Dịch vụ hành chính công: Là dịch vụ do  cơ quan, đơn vị chức năng các cấp  cung cấp trong quá trình  giải quyết  thủ tục hành chính liên quan đến các vấn đề thuộc lĩnh vực  quản lý dược, phi lợi nhuận.  

 - Dịch vụ  công phi thương mại là hoạt động cung cấp dịch vụ cơ bản cho người dân gắn với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực được phân công quản lý (ví dụ: dịch vụ dạy nghề  trong hệ thống GDNN).  

 - Dịch vụ công ích là hoạt động cung cấp  hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sinh hoạt, giao thông công cộng đô thị, phòng chống thiên tai, cảnh quan môi trường... 

 Như đã  đề cập ở trên, an sinh xã hội được tiếp cận theo  nghĩa rộng và nghĩa hẹp khác nhau. Trong tiếng Anh, an sinh xã hội thường được gọi là social security và khi dịch sang tiếng Việt, ngoài social security, thuật ngữ này còn được dịch là an sinh xã hội, bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, an sinh xã hội... với  nghĩa không hoàn toàn tương đồng ( Vì ngoài từ Social Security còn có từ Social Protection với  nghĩa khác mà khi dịch sang tiếng Việt cũng có nhiều từ tương tự như bảo trợ xã hội, an sinh xã hội, v.v.) 

 Theo nghĩa chung nhất, Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được sống trong hoà bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổigià…Theo nghĩa này thì tầm “ bao” của Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên cũng là điều dễ hiểu.  

 Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị thiên tai, dịch hoạ… 

 

 Với khái niệm này dù là theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, đều cho thấy vai trò rất to lớn của ASXH đối với từng cá nhân, gia đình và toàn xã hội, trong bất kỳ hoàn cảnh nào.  

 Để hiểu rõ hơn, hiện nay trong chính sách ASXH người ta phân ra ba loại (i) Những chính sách, chương trình phòng ngừa rủi ro; (ii) Những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro và (iii) những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro. Còn khi bàn về các trụ cột của hệ thống ASXH (Hệ thống chứ không phải chính sách ASXH) thì người ta thường phân ra ba trụ cột cơ bản là: (i) BHXH (bao hàm cả BHYT); (ii) Trợ giúp xã hội (bao gồm cả cứu trợ xã hội) và (iii) Cơ chế tùy nghi/tùy biến (bao gồm các dịch vụ ASXH, trợ cấp từ quỹ công cộng; các chế độ bảo vệ của chủ SDLĐ…). 

  Ở Việt nam, trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011-2020 đã đề ra những định hướng quan trọng phát triển ASXH và những vấn đề có liên quan đến ASXH, cụ thể là: 

 

 - Phát triển mạnh các dịch vụ ASXH. Hiện nay, trên thế giới ASXH ngày càng phong phú, đa dạng và trở thành một ngành dịch vụ rất phát triển. Có thể kể đến các  dịch vụ hỗ trợ như  chăm sóc người già, chăm sóc người tàn tật tại cộng đồng hoặc tại các trung tâm công lập… Ngay cả BHXH (một bộ phận cấu thành và quan trọng của BHXH (tầm quan trọng của hệ thống ASXH) cũng đã trở thành một dịch vụ công ích do nhà nước cung cấp”. Theo chúng tôi, đây là một định hướng chiến lược hết sức đúng đắn của Đảng ta.  

 - Mở rộng và phát triển mạnh các loại hình, hoạt động ASXH: Điều này được thể hiện rõ trong định hướng chiến lược: “Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng  rộng khắp và hiệu quả. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt  chính sách ưu đãi và không ngừng nâng cao mức sống của người có công. Mở rộng các hình thức trợ giúp, cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng yếu thế. 

 Tất cả những vấn đề trên về cơ bản là  nội dung cơ bản của ASXH đã được các tài liệu trong và ngoài nước đề cập. Như đã đề cập, về mặt cấu trúc, ở cấp độ chung nhất, ASXH bao gồm các thành tố cơ bản sau: 

 

 - Bảo đảm xã hội; Phúc lợi; Giảm trừ gia cảnh; Quỹ tiết kiệm xã hội; Các dịch vụ xã hội  được tài trợ  công khai khác… 

 

 Riêng về BHXH, theo quy định của pháp luật BHXH  Việt Nam hiện nay đối với BHXH bắt buộc có (i) chế độ BHYT; (ii) Chế độ bảo hiểm thai sản; (iii) Đề án tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; (iv) Chế độ bảo hiểm hưu trí; (v) Gói Bảo hiểm Thất nghiệp và (vi) Gói Bảo hiểm Nhân thọ. Ngoài ra, theo quy định của Luật Bảo hiểm Y tế, Việt Nam thành lập bảo hiểm y tế. Như vậy, việc phát triển và mở rộng các dịch vụ ASXH, như đã xác định  trong Chiến lược, là một phần trong xu thế hội nhập toàn cầu của Việt Nam. Vấn đề  là tổ chức thực hiện các dịch vụ này như thế nào cho phù hợp và hiệu quả. 

  Dịch vụ an sinh xã hội công cộng 

 

 Đối với ASXH, nghiên cứu này chỉ tập trung vào hai nhóm dịch vụ công cơ bản: (i) dịch vụ công hành chính  và (ii) dịch vụ ASXH công phi thương mại. 

 -Dịch vụ hành chính công BHXH: là dịch vụ do các cơ quan chức năng, đơn vị làm công tác BHXH các cấp (ngành lao động, ngành BHXH...) cung cấp trong quá trình  giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến các vướng mắc thuộc lĩnh vực dược. quản lý, phi lợi nhuận. Đối với lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội là các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, việc làm, giáo dục nghề nghiệp và người có công. 

 - Dịch vụ ASXH công phi thương mại là hoạt động cung cấp các dịch vụ cơ bản cho người dân gắn với quản lý nhà nước về hoạt động  ASXH (như dịch vụ dạy nghề, dịch vụ dạy nghề trong công tác xã hội, dịch vụ chỉnh hình và phục hồi chức năng, dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ người khuyết tật). người có công, dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ tại các cơ sở bảo trợ xã hội...). 

 2. Yêu cầu đổi mới của dịch vụ công trong thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam 

 Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm  ASXH đã được mở rộng đáng kể. Tuy nhiên,  như đã đề cập, ASXH thực chất phải góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho mọi công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công khai. Theo  quan niệm hiện đại, an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường còn bao gồm  việc tạo việc làm “lao động tốt” cho người lao động, những người lao động có thu nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu, có thu nhập ngang bằng với công việc; được đối xử công bằng tại nơi làm việc; tạo điều kiện để người nghèo  tiếp cận  các dịch vụ xã hội tối thiểu (giáo dục, y tế, nước sinh hoạt...); bảo đảm  mọi công dân trong xã hội được chăm sóc sức khoẻ,  khám bệnh, chữa bệnh... 

 Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các quốc gia, tùy theo mức độ, người lao động đều có  điểm chung về  cơ hội và  rủi ro tương tự nhau, đó là: 

 

 - Dễ bị mất việc làm nếu công ty của người lao động bị phá sản hoặc làm ăn thua lỗ khiến người sử dụng lao động phải sa thải người lao động. 

 - Một số nhóm công nhân không kịp thích nghi với sự thay đổi  công nghệ trong công ty đã phải chuyển  nghề  hoặc phải rời bỏ công ty. 

 - Một số nhóm công nhân không chịu được áp lực  công việc dẫn đến  stress hoặc  khủng hoảng cá nhân.  - Người lao động cũng có thể bị bần cùng hóa do cách đối xử của chủ  hoặc do ảnh hưởng  kinh tế toàn cầu...  

 Trong bối cảnh đó, các nước phải  đổi mới, cải cách hệ thống an sinh xã hội để thích ứng. Theo ILO, những rủi ro của cuộc khủng hoảng kinh tế đang tạo ra "thế hệ bị gạt ra bên lề", gồm những người trẻ tuổi hoàn toàn đứng ngoài thị trường lao động, không có hy vọng có thể làm việc để có một cuộc sống bền vững. Thu nhập thấp vẫn  bế tắc. 

 Khi người lao động  thất nghiệp,  mất việc làm, Chính phủ các nước phải có những giải pháp khác nhau để hỗ trợ, hỗ trợ các quỹ BHXH, BHTN và  các quỹ xã hội khác trong hệ thống ASXH quốc gia. Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu nên các rủi ro  hội nhập luôn tác động trực tiếp đến đời sống xã hội, đặc biệt là  lĩnh vực việc làm và xã hội. Nhiều nhóm lao động, nhất là lao động trẻ dễ bị tổn thương trên thị trường lao động. Thiếu việc làm bền vững gây ra nhiều hậu quả về kinh tế và xã hội. Từ góc độ an sinh xã hội, những hậu quả này là: 

 

 Việc làm bấp bênh dẫn đến thu nhập thấp và không ổn định. Điều này ảnh hưởng đến khả năng (khả năng tài chính) tham gia BHXH của người lao động, nhất là đối với người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Khi không thuộc đối tượng tham gia BHXH, họ sẽ không được  bảo vệ  thu nhập, nhất là khi về già sẽ không còn khả năng lao động. Đây là hậu quả lớn nhất, ảnh hưởng  lớn đến cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Ngoài ra, làm nghề bếp bị ốm đau đồng nghĩa với việc người lao động dễ gặp  rủi ro trong cuộc sống và dễ trở thành  đối tượng nghèo, làm  tăng  chi phí cho hệ thống an sinh xã hội. 

 - tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt là trong giới trẻ, một mặt làm cho thị trường lao động kém hiệu quả hơn (không có việc làm đầy đủ); mặt khác, làm tăng chi phí bảo hiểm xã hội (chi trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp), tăng chi phí đào tạo lại nghiệp vụ cho người lao động và tăng chi phí cho hệ thống quản lý. Ngoài ra, thất nghiệp còn dẫn đến những hệ lụy xã hội không mong muốn khác như  tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình,  tự tử do bất lực trong cuộc sống… ảnh hưởng đến an sinh xã hội nói chung.  

 - Lao động trong khu vực phi chính thức còn quá lớn, chậm chuyển dịch sang nền kinh tế hiện đại hơn, kéo theo khó mở rộng độ bao phủ của BHXH và điều này cũng có nghĩa rằng quy mô của quỹ BHXH không thể mở rộng hoặc muốn tăng quy mô quỹ buộc phải tăng mức đóng BHXH hoặc kéo dài thời gian đóng BHXH của nhóm lao động ở khu vực kinh tế chính thức. Nhưng tăng mức đóng BHXH sẽ kéo theo những hệ lụy vê kinh tế và xã hội khác như giảm khả năng cạnh tranh sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp do chi phí cho nhân công cao, từ đó làm cho năng lực cạnh tranh chung của nền kinh tế bị ảnh hưởng. Từ phía người lao động, tăng mức đóng góp BHXH ảnh hưởng đến mức chi tiêu của gia đình họ, điều này lại dẫn đến chất lượng cuộc sống của dân cư bị ảnh hưởng.  

 Trong bối cảnh mới, hệ thống dịch vụ an sinh xã hội của Việt Nam tập trung vào việc cung cấp dịch vụ cơ bản cho người dân, gồm 4 nhóm chính sách sau đây: 

 

 - Nhóm chính sách tạo việc làm để đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo, nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro thông qua tham gia TTLĐ để có được việc làm tốt, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững; 

 

 - Nhóm chính sách BHXH nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già, thông qua tham gia vào hệ thống BHYT để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro trên; 

 

 - Nhóm chính sách TGXH bao gồm chính sách thường xuyên và đột xuất nhằm hỗ trợ người dân khắc phục các rủi ro không lường trước như là mất mùa, đói, nghèo kinh niên; 

 

 - Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ bản nhằm tăng cường cho người dân tiếp cận hệ thống giáo dục tối thiểu, y tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và thông tin truyền thông. 

3. Khuyến nghị hàm ý chính sách 

 Trước những yêu cầu mới, dịch vụ ASXH công  ở Việt Nam, theo chúng tôi, cần tập trung vào các vấn đề sau: 

 (1) Đổi mới thể chế, chính sách và cơ chế cung ứng dịch vụ công. 

 Nhấn mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội Hệ thống  pháp luật trong lĩnh vực an sinh xã hội một mặt phải bảo đảm  tính ổn định, đồng thời phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế hội nhập. Mặt khác, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này cần được rà soát cho đồng bộ, nhằm bảo đảm  quyền  và trách nhiệm của mỗi tổ chức, công dân trong xã hội, hướng tới sự tổng hòa  lợi ích  ASXH của cộng đồng, xã hội và Nhà nước. Cải cách sâu rộng hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và hệ thống GDNN theo hướng cởi mở, linh hoạt. Tạo cơ chế  chuyển giao cho khu vực tư nhân điều hành các dịch vụ công không nhất thiết thuộc sở hữu của nhà nước; đồng thời tăng cường hợp tác công tư trong lĩnh vực này.  

 (2) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH 

 

 Nâng cao chất lượng công tác dự báo chiến lược trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch để thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH. Dự báo phải vừa đảm bảo tính xu hướng, vừa có tính đột phá theo xu hướng thay đổi nhanh của thị trường lao động và công nghệ, nhất là dưới tác động của CMCN 4.0. 

  (3) Đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng của người dân, đối tượng thụ hưởng ASXH.  

 Cần tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các phương tiện truyền thông đa phương tiện, internet, trên các website về danh mục các dịch vụ cung ứng, thủ tục, quy trình cung ứng và giải quyết nhu cầu của người dân về các vấn đề liên quan đến việc làm, học nghề và các dịch vụ trợ giúp xã hội … Công khai các chỉ dẫn cẩn thiết cho người dân khi đến giải quyết công việc; cung cấp các thông tin liên quan đến vấn đề mà người dân muốn biết, muốn tìm hiểu… 

 

 (4) Nâng cao hiệu quả và năng lực của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH 

 

 Để dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH đáp ứng được nhu cầu của người dân và xã hội, các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động, hướng tới tính chuyên nghiệp cao, hoạt động linh hoạt và hiệu quả. Các tổ chức, cơ quan cung cấp dịch vụ công cần đề xuất, kiểm soát và công bố công khai các quy trình, các tiêu chuẩn rõ ràng về việc cung cấp từng loại dịch vụ công trrong lĩnh vực GDNN; đưa ra các cam kết về chất lượng cung cấp dịch vụ công, trách nhiệm bồi thường nếu vi phạm cam kết… 

 

 Năng lực cuả các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH là cốt lõi tạo ra hiệu quả cung cấp dịch vụ của các cơ quan, tổ chức này. Năng lực của các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên của cơ quan, tổ chức này. Vì vậy, cần nâng cao năng lực ( bao gồm, kiến thức, kỹ năng cung cấp dịch vụ công và thái độ thực thi công vụ) của đội ngũ này. 

  (5) Tôn trọng nguyên tắc “quyền lựa chọn” của người dân 

 

 Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng có hai yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả cung cấp dịch vụ công, đó là (i) tạo điều kiện cho người dân được quyền lựa chọn cơ quan, tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực ASXH, kể cả công và tư; và (ii) tạo điều kiện cho người dân có tiếng nói ( góp ý) về chất lượng dịch vụ công, nhằm cải thiện khả năng tiếp cận của họ và cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực nà. Do vậy, cần có cơ chế để tiếp nhận, xử lý thông tin phản hổi từ khách hàng (người dân và các đối tác có liên quan). 

  (6) Đối mới hệ thống Dịch vụ hành chính công lĩnh vực ASXH 

 

 Đây là dịch vụ do các cơ quan, đơn vị chức năng các cấp quản lý nhà nước các cấp cung cấp trong quá trình thực hiện giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến những vấn đề trong lĩnh vực ASXH, bao gồm lao động, việc làm; giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội; an toàn, vệ sinh lao động; người có công; bảo trợ xã hội, gồm giảm nghèo và trợ giúp xã hội.... Cẩn đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong quy trình thực hiện cung cấp dịch vụ và quản lý hồ sơ; thực hiện triệt để “ cơ chế một cửa„ trong quy trình giải quyết thủ tục.  (7) Đổi mới hệ thống dịch vụ công phi thương mại, tập trung vào các nhóm dịch vụ sau (thuộc ngành LĐTBXH): 

 

 Dịch vụ giáo dục và đào tạo nghề 

 

 Nhà nước tập trung tổ chức huấn luyện chuyên môn, nghiệp vụ cho học viên nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng đối với những ngành, nghề khó vào nhưng xã hội có nhu cầu; chuyên ngành  đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Dạy nghề, dạy nghề  cho phụ nữ, lao động nông thôn, người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự,  công an, thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và dự án. Các hoạt động đào tạo còn lại chuyển mạnh cho doanh nghiệp thực hiện, thông qua cơ chế đấu thầu dịch vụ, hợp tác công  tư; khuyến khích hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực GDNN. 

aabefbdba

 Thực hiện hợp tác công tư và đẩy mạnh xã hội hóa công tác tư vấn, hội nhập nghề nghiệp và hướng  nghiệp cho người lao động; Thu thập, phân tích, dự báo và cung cấp thông tin thị trường lao động. Cơ quan quản lý nhà nước có thể chỉ đạo khu vực tư nhân thực hiện. dịch vụ phúc lợi 

 Nhà nước tổ chức hoạt động để xử lý đối tượng cần  bảo vệ khẩn cấp; Chăm sóc dài hạn cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Thực hiện xã hội hóa và trao quyền cho xã hội tổ chức các dịch vụ công tác xã hội, đặc biệt là tư vấn và tham vấn; trợ giúp pháp lý; hòa giải;  ngăn chặn và chấm dứt việc đối tượng bị ngược đãi, bạo lực hoặc ngược đãi; giúp đỡ đối tượng hòa nhập cộng đồng; tư vấn truyền thông,… 

 8) Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ công an sinh xã hội 

  Trước hết, cần đầu tư, nâng cấp đồng bộ hạ tầng công nghệ thông tin trong các cơ quan quản lý và cơ quan cung cấp dịch vụ công an sinh xã hội. Xây dựng cổng thông tin điện tử lồng ghép các hoạt động an sinh xã hội. Đồng thời, xây dựng  phần mềm quản lý để có thể thực hiện  dịch vụ công trực tuyến; quản lý theo nhóm đối tượng (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, bồi dưỡng nghiệp vụ người có công...) và xây dựng cơ sở dữ liệu về an sinh xã hội, trong đó  đảm bảo tính đồng bộ,  liên thông và  bảo mật trong quản lý đối tượng.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo