Trong bài viết này, các tác giả trình bày một cái nhìn tổng quan về khái niệm và yêu cầu của việc quản lý địa giới hành chính, đánh giá tình hình hiện tại của hệ thống pháp luật về quản lý địa giới hành chính, và đề xuất một số giải pháp cụ thể, bao gồm kiến nghị ban hành Luật Quản lý địa giới hành chính ở nước ta.
Địa giới hành chính là sự chia nhỏ lãnh thổ của một quốc gia thành các đơn vị hành chính khác nhau. Các đơn vị hành chính này có diện tích và được xác định bằng đường ranh giới hành chính. Đường ranh giới hành chính là đường chia cắt giữa các đơn vị hành chính, được đánh dấu bằng các mốc địa giới và là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm quản lý của các cấp chính quyền trong việc quản lý dân cư, đất đai, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tại địa phương. Các cấp chính quyền lập hồ sơ, bản đồ địa giới hành chính và cắm mốc trên thực địa để làm căn cứ cho công tác quản lý địa giới hành chính. Việc xác định địa giới hành chính dựa trên nhiều yếu tố như diện tích đất đai, dân số, yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, dân tộc, lịch sử, truyền thống, tập quán của dân cư địa phương.
Theo Hiến pháp 2013, Việt Nam được chia thành các đơn vị hành chính như sau: tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; quận, huyện, thị xã, đơn vị hành chính tương đương thuộc thành phố trực thuộc trung ương; xã, thị trấn thuộc huyện; phường, xã thuộc thị xã và thành phố thuộc tỉnh; và phường thuộc quận. Cũng có đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Vì vậy, đ
ịa giới hành chính bao gồm các địa giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Sự ổn định của địa giới hành chính là một yếu tố quan trọng để đảm bảo sự ổn định của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, việc điều chỉnh đơn vị hành chính và địa giới hành chính là cần thiết để đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, việc điều chỉnh đơn vị hành chính và địa giới hành chính diễn ra thường xuyên. Ví dụ, vào đầu năm 1976, cả nước có 38 tỉnh thành; đến năm 1989, số tỉnh thành tăng lên 44; năm 1991, số tỉnh thành là 53; năm 1997, là 61; năm 2004, là 64; từ năm 2008 đến nay, là 63 tỉnh thành. Tương tự, việc điều chỉnh, chia tách và sáp nhập cũng xảy ra ở cấp huyện và cấp xã. Do đó, sự ổn định của đơn vị hành chính và địa giới hành chính là tương đối. Khi điều chỉnh đơn vị hành chính và địa giới hành chính, các cấp chính quyền địa phương cần tiến hành phân chia, định vị, lập hồ sơ và tổ chức quản lý nhà nước về địa giới hành chính, đây là công việc liên tục và thường xuyên.
Thực trạng hệ thống pháp luật về quản lý địa giới hành chính hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế, công tác quản lý nhà nước về địa giới hành chính ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức, gây ra nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để. Một trong những vấn đề phổ biến là tình trạng chồng lấn, tranh chấp, sự khác biệt giữa bản đồ và thực địa, và khó khăn trong việc xác định địa giới hành chính. Có nhiều tr
ường hợp chồng lấn, tranh chấp, xâm phạm và xâm nhập đã diễn ra trong thời gian dài, gây nguy cơ mất an ninh trật tự và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân trong khu vực biên giới, cũng như gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực này. Theo báo cáo từ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2019, có 103 khu vực tranh chấp ở cấp tỉnh và cấp huyện.
Tổng quan, bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý địa giới hành chính, nhu cầu quy định pháp luật, và các thách thức đang đối mặt ở Việt Nam. Các giải pháp đề xuất, bao gồm kiến nghị ban hành Luật Quản lý địa giới hành chính, nhằm giải quyết các vấn đề hiện tại và cải thiện việc quản lý địa giới hành chính trong nước.
Nội dung bài viết:
Bình luận