1. Thế nào là đe dọa giết người?
Giết người là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và vẫn thường xuyên xảy ra ở nước ta với tỷ lệ khá cao. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi giết người, nhưng dù là nguyên nhân nào thì hành vi giết người cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Và dọa giết cũng bị coi là vi phạm pháp luật. Theo đó, đe dọa giết người là hành vi mà người phạm tội dùng hành động hoặc lời nói hoặc hành động để cho đối phương thấy rằng mình sẽ thực hiện hành vi giết người đó. Hành vi này khiến kẻ thù tin rằng anh ta sẽ bị giết ngay lúc đó, nếu anh ta không tuân theo mong muốn của kẻ đe dọa. Đe doạ giết người là một trong những tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự của người khác được pháp luật bảo hộ.
Dọa giết được dịch sang tiếng Anh như sau: Threating to kill
Khái niệm đe dọa giết người được dịch sang tiếng Anh như sau:
Đe doạ giết người là hành vi mà người phạm tội dùng hành động hoặc lời nói hoặc hành động để cho kẻ thù thấy rằng mình sẽ thực hiện hành vi giết người đó. Hành vi này khiến kẻ thù tin rằng anh ta sẽ bị giết ngay lúc đó, nếu anh ta không tuân theo mong muốn của kẻ đe dọa. Đe doạ giết người là một trong những tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự của người khác được pháp luật bảo hộ.
![Đe doạ giết người](/uploads/2023/08/de-doa-giet-nguoi.jpg)
Đe doạ giết người
2. Tội Đe dọa Tử vong theo Bộ luật Hình sự:
Tội đe dọa chết người theo BLHS 2015 Sửa đổi 2017 được quy định cụ thể như sau:
Người nào đe dọa giết người, nếu có lý do để lo sợ việc đe dọa sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. . Đây là mức án nhẹ nhất khi có dấu hiệu cấu thành tội dọa giết.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
Dành cho 2 người trở lên. Người phạm tội thực hiện hành vi đe dọa đối với 2 người trở lên dưới các hình thức khác nhau.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội là người có chức vụ, công tác trong cơ quan nhà nước được giao quyền hạn để thực hiện một nhiệm vụ nhất định. Nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để gây áp lực hoặc đe dọa thi hành án tử hình hoặc sẵn sàng dùng súng bắn người bị đe dọa.
Đối với người đang phục vụ hoặc vì động cơ chính thức của nạn nhân. Những người này là chấp hành viên, công chức, quân đội và công an có trách nhiệm điều tra và xử lý hành vi phạm tội của người phạm tội.
Đối với trẻ em dưới 16 tuổi. Đây là những đối tượng không có khả năng tự bảo vệ nên Nhà nước luôn quy định để bảo vệ, đồng thời tạo tác dụng răn đe đối với những đối tượng có ý định lợi dụng tuổi trẻ của những đối tượng này mà đe dọa thực hiện theo yêu cầu của người đe dọa.
Để che giấu hoặc tránh bị truy tố về một tội phạm khác. Ví dụ, một người đe dọa người khác vì họ biết người đe dọa đang sử dụng ma túy, ăn cắp tài sản hoặc bí mật của người khác, nhưng khi bị phát hiện, có thể bị kết án hoặc tử hình. 3. Các yếu tố cấu thành tội đe dọa chết:
Bất cứ tội phạm nào được quy định trong BLHS sẽ căn cứ vào các yếu tố cấu thành để xác định đúng tội danh và khung hình phạt phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội.
Thứ nhất, mặt chủ quan của tội phạm
Các mối đe dọa tử vong có thể là kết quả của ý định trực tiếp hoặc ý định gián tiếp. Hiệu suất hành vi có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Nhiều hành vi được thực hiện do ý chí của người biểu diễn hoặc do người khác thuê.
Thứ hai, về mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm được định nghĩa là hành vi đe dọa tính mạng của cá nhân. Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện thông qua hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
Hành vi này có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như lời nói, hành động, ánh nhìn, cử chỉ nhưng đều có ý định giết người nhưng có tính chất đe dọa giết người như kề dao vào cổ, cầm súng đã nạp đạn, nhắn tin hoặc gọi điện thoại, nói chuyện trực tiếp với người đó… Hành vi dọa giết là hành vi thực sự làm cho người khác tin rằng họ sẽ bị giết chứ không chỉ là lời khai chung. Đây là dấu hiệu của tội phạm này.
Hậu quả của hành vi này là tạo ra niềm tin rằng người bị đe dọa sẽ chết, trong nhiều trường hợp hậu quả nằm ngoài khả năng kiểm soát của người đe dọa. Chẳng hạn, người bị đe dọa sợ hãi nên uống thuốc tự tử, hoặc có hành vi ngược lại là giết người đe dọa mình…
Do đó, mối quan hệ của hành vi đe dọa giết người là làm cho người khác tin rằng họ có khả năng bị giết, cố ý để người bị đe dọa nhìn thấy hành vi đe dọa hoặc để người khác nhìn thấy kẻ gây hấn biết người này sẽ báo cho người đó biết. bị đe dọa và đồng thời có thể biết được vụ giết người đã xảy ra khi nào và chính xác như thế nào.
Thứ ba, về mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là những quan hệ được pháp luật bảo vệ nhưng bị chủ thể xâm phạm.
Đe dọa xâm hại các quan hệ được pháp luật bảo vệ cụ thể trong bộ luật này là tính mạng, sức khỏe của công dân. Nhiều người sợ hãi đến mức có những hành vi điên rồ như tự tử, nhảy lầu, treo cổ tự tử, v.v. nhà và trốn. Từ đó ảnh hưởng lớn đến tinh thần, sức khỏe, đời sống và kinh tế.
Thứ tư, đối tượng
Chủ thể hành vi là người có đầy đủ ý thức, năng lực hành vi dân sự đầy đủ và làm chủ được hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật, người thực hiện hành vi chính là người từ đủ 16 tuổi trở lên, nếu chưa đủ 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
4. Ví dụ về Tội Đe dọa Tử vong theo Luật Hiện hành:
Xin đưa ra ví dụ sau:
Khoảng ngày 18/8/2020, thấy B, 21 tuổi và con trai bà A ăn tối tại quán của C, mẹ ruột của D đã gọi điện cho C nói rằng cấm C hẹn hò với B, để C tập trung vào việc học. Điều này khiến B tức giận vì cảm thấy bị coi thường trước mặt mọi người. Sau đó, B đi nhậu với bạn.
Tuy nhiên, đến khoảng 21h cùng ngày, B vì bị D xúc phạm, coi thường nên đã không rủ C đi chơi với mình vì cho rằng B hư hỏng, không có công việc ổn định và mang theo dao. dài khoảng 80 cm đến nhà. C. Ngay lúc đó, thấy vợ chồng chị D bỏ đi, B đã dùng súng chĩa thẳng vào người D và nói những lời đe dọa D như sau: “Sao mày dám coi thường tao, mất mặt trước bao nhiêu người. Hôm nay tao chém mày chết vì tội làm nhục tao ở quán bar.” Thấy B như vậy, vợ chồng bà D. không mở cửa lao thẳng vào nhà. Sau đó, B thức khoảng 1 tiếng rồi về nhà.
Tuy nhiên, chưa dừng lại ở đó, ngày hôm sau B tiếp tục đến nhà bà D. và dùng những lời lẽ như vậy đe dọa. Và ném gạch vào nhà, thách thức bà D. ra mặt “Mày ra đây, nó giết mày bây giờ”. Sau nhiều lần can ngăn, khuyên nhủ, lúc này B mới quay lại, nhưng vẫn nhắc tôi hôm sau sẽ quay lại. Sau nhiều ngày cứ lặp đi lặp lại như vậy, chị D sợ hãi đến mức phải trốn nhà bố mẹ đẻ để không phải nhìn thấy B. Như vậy, trong vụ án này có thể thấy rõ việc bị cáo B đe dọa D là làm cho D sợ hãi nên có cơ sở cho rằng hành vi đe dọa D là rất manh động và rất có thể B sẽ thực hiện được hành vi đó. Ngoài ra, việc B không đề cập một hai lần mà nhắc đi nhắc lại nhiều lần khiến D và mọi người xung quanh ai cũng tin rằng B sẽ thực hiện hành vi. Chủ thể của hành vi là người đủ 18 tuổi trở lên, không mắc bệnh tâm thần vì họ thực hiện hành vi trong tình trạng tỉnh táo, sáng suốt. Do đó, nếu D tố cáo hành vi này với cơ quan công an thì B có dấu hiệu của tội đe dọa giết người. Tuy nhiên, nếu sau khi đe dọa và giết chết D, tội phạm của B lúc này sẽ chuyển thành tội giết người. Hiện nay, tình trạng đe dọa giết người trong cuộc sống hàng ngày đang diễn ra với mức độ khá nghiêm trọng, đáng kể trong nhóm tội cố ý gây nguy hiểm đến tính mạng con người. Sở dĩ tỷ lệ tội phạm đe dọa giết người cao như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là mức phạt tiền do BLHS quy định chưa có tính răn đe cho xã hội.
Nội dung bài viết:
Bình luận