TCCS - Dân chủ, quyền con người là phạm trù chính trị, pháp lý, lịch sử, văn hóa - xã hội gắn liền với mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi chế độ chính trị và mọi quốc gia. Về các phạm trù này còn có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau. Vì vậy, cần phải hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền để kiên quyết đấu tranh chống sự áp đặt quan điểm, tư tưởng dân chủ, nhân quyền từ nước này sang nước khác, cũng như sự lợi dụng dân chủ, nhân quyền để triệt hạ. Việt Nam.
Tư tưởng về dân chủ và vấn đề áp đặt vô căn cứ các giá trị dân chủ tư sản lên các nước khác
Thuật ngữ "dân chủ" được đặt ra vào khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. Về mặt ngữ nghĩa, ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại sử dụng thuật ngữ "demokratos" để mô tả nền dân chủ, trong đó "demos" có nghĩa là con người và "kratos" có nghĩa là quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếng Hy Lạp cổ đại được hiểu là quyền lực thuộc về nhân dân hay quyền lực của nhân dân. Sự hiểu biết cơ bản vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay. Theo đó, dân chủ là khái niệm dùng để chỉ quy chế nhân dân, phản ánh mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực của nhà nước, trong đó quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội (Ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với nhân dân TP.HCM) _Ảnh: TTXVN
“Dân chủ” không phải là một khái niệm bất di bất dịch mà là một phạm trù chính trị, lịch sử, văn hóa, xã hội và luôn gắn liền với sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong những sự vật cụ thể nhất định. Vì vậy, khái niệm “dân chủ” có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “dân chủ” và “dân chủ”. “Dân chủ” là thể chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân; còn khái niệm “dân chủ” chỉ hệ thống các thiết chế được thiết lập và thực hiện trong thực tế xã hội nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó. Biểu hiện của một nền dân chủ nói chung bao gồm bốn yếu tố chính: Có một hệ thống chính trị mà việc lựa chọn và thay thế các chính phủ thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng; đảm bảo sự tham gia tích cực của công dân vào đời sống chính trị và dân sự; bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo đảm pháp quyền, trong đó mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không ai đứng trên pháp luật. Có hai cách thực hiện quyền kiểm soát của nhân dân: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là phương thức tôn trọng và thực hiện dân chủ trong tổ chức, cộng đồng, xã hội, theo đó quyền làm chủ của các thành viên trong tổ chức, cộng đồng, xã hội đó do chính các thành viên trực tiếp thực hiện. Dân chủ đại diện là phương thức tôn trọng và thực hiện dân chủ trong tổ chức, cộng đồng, xã hội, trước hết là trong tổ chức cơ quan đại diện chủ sở hữu, cơ quan quyền lực nhà nước, theo đó quyền sở hữu của các thành viên công ty được thực hiện do đại diện của họ được bầu hoặc chỉ định trong số các thành viên. Trên thực tế, chủ quyền nhân dân đôi khi được thực thi dưới sự kết hợp của các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, dân chủ là một phạm trù có quá trình xuất hiện và phát triển hết sức phức tạp. Trong mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi thời đại, mọi quốc gia, dân tộc và chế độ dân chủ luôn có những đặc điểm dựa trên di sản biện chứng của những điểm chung nói trên. Chế độ chiếm hữu nô lệ thực chất là chế độ dân chủ của giai cấp chủ nô. Trong chế độ phong kiến, các tư tưởng và mô hình dân chủ bị chế độ toàn trị hạn chế và cấm đoán khi quyền lực tuyệt đối nằm trong tay quân chủ. Chế độ dân chủ tư sản do cách mạng tư sản thiết lập trên cơ sở liên minh giữa giai cấp tư sản với các giai cấp khác nhằm đánh đổ chế độ phong kiến. Vì vậy, những thành tựu của nền dân chủ tư sản không chỉ do giai cấp tư sản tạo ra, mà là kết quả đấu tranh của công nhân, kết quả của quá trình nhận thức và tất yếu của sự tiến bộ của xã hội. Những tuyên bố về tự do, bình đẳng, bác ái, tư tưởng pháp quyền và xã hội dân sự là những nội dung đầu tiên của nền dân chủ tư sản. Tuy nhiên, với bản chất là xã hội tư sản, nền dân chủ tư sản không tránh khỏi những hạn chế khách quan. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của công nhân (dân chủ nhân dân) được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị - kinh tế, văn hóa - xã hội. Nó được hình thành và phát triển bởi tất cả các giá trị văn hóa đích thực của nhân loại. Xã hội càng phát triển, điều kiện vật chất, trí tuệ và tinh thần của con người càng phong phú thì dòng dân chủ càng mở rộng và khẳng định mình một cách mạnh mẽ.
Học thuyết Mác - Lênin khẳng định: “Dân chủ là sự thống trị của đa số đối với thiểu số (chứ không phải ngược lại như bọn tư bản vẫn mong muốn)”(1). Các hình thức dân chủ rất đa dạng, không có mô hình dân chủ chung cho mọi quốc gia, mọi dân tộc. Mức độ tham gia thực tế của quần chúng vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội phản ánh trình độ phát triển của dân chủ, những vấn đề cơ bản nhất của dân chủ. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm chủ yếu sau: Là nền dân chủ phát triển nhất trong lịch sử, là nền dân chủ rộng rãi nhất - dân chủ cho mọi người lao động; là một nền dân chủ hoàn toàn có khả năng thực thi quyền lực thuộc về người lao động, vì quyền lực này được đảm bảo bằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất thống trị nền kinh tế; là chế độ dân chủ được thể chế hóa và vận hành trong thực tế xã hội bằng mối quan hệ chính trị - pháp luật “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Cử tri là đồng bào Công giáo Giáo phận Hà Nội đang thực hiện quyền dân chủ khi bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 _Ảnh: TTXVN
Ở Việt Nam, dân chủ cũng có quá trình hình thành và phát triển tuân theo một quy luật chung. Hiện nay, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Dân chủ là phương thức và nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước và xã hội, trong đó mọi thành viên đều được tôn trọng và bình đẳng trong việc tham gia vào các quyết định liên quan đến đất nước, xã hội và cộng đồng. . Công dân có mọi điều kiện để phát huy các quyền tự do, dân chủ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quan điểm: “Cán bộ, đảng viên, đoàn viên trước hết phải gương mẫu đi đầu... để nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết sử dụng quyền dân chủ của mình. . dám nói, dám làm”(2). Cơ sở của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền tự do của cá nhân, tổ chức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng không có tự do tư tưởng vô hạn mà phải trong khuôn khổ pháp luật. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta khẳng định: “Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo vệ. bảo đảm…, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(3). Dân chủ là quyền con người được tự do trên mọi lĩnh vực, nhưng tự do phải trong khuôn khổ các chuẩn mực pháp luật và đạo đức, nguyên tắc của xã hội. Đại hội Đảng lần thứ XIII tuyên bố: “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng và có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở... Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân trục lợi dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. kiểm soát”(4).
Trong khi đó, ngược lại với quan điểm này, các nước tư bản cho rằng dân chủ bao gồm các yếu tố: bầu cử tự do, hệ thống đa đảng, tư pháp độc lập và nhân quyền; Nhấn mạnh quá mức vào phổ thông đầu phiếu, các quyền tự do chính trị tuyệt đối và phổ quát và các quyền tự do dân sự không bị giới hạn bởi các đặc điểm địa lý, xã hội, quốc gia và dân tộc. Và cũng chính từ quan điểm này, các nước tư bản phương Tây đã áp đặt một cách vô căn cứ các giá trị dân chủ tư sản lên các nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng lợi dụng triệt để sự khác biệt trong việc thực hiện dân chủ với các khuôn khổ, chuẩn mực, nguyên tắc xã hội và pháp luật của các nước khác để thực hiện các hoạt động chống phá xã hội. Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự truyền bá các tư tưởng dân chủ tư sản từ các nước phương Tây sang các nước khác đang tạo thành những làn sóng. Tuy nhiên, sự tồn tại của chế độ dân chủ phụ thuộc vào các yếu tố bên trong của một quốc gia, sự phát triển của lịch sử và xã hội của quốc gia này qua nhiều thế hệ chứ không thể bị áp đặt từ bên ngoài. Kết quả là nhiều phong trào dân chủ do phương Tây hậu thuẫn trên thế giới đã không thiết lập được một nền dân chủ ổn định mà chỉ dẫn đến hỗn loạn và nội chiến vì các phe phái chính trị không thể hợp tác với nhau để duy trì một nền dân chủ ổn định, mà chống phá lẫn nhau. phe kia giành quyền lực với sự hỗ trợ của nước ngoài, và người dân bị lôi kéo vào cuộc xung đột.
Góc nhìn về nhân quyền, mối quan hệ giữa dân chủ, nhân quyền và vấn đề vi phạm nhân quyền đối với Việt Nam
Dân chủ và nhân quyền (nhân quyền) là hai thể chế có quan hệ mật thiết với nhau. Nhân quyền vừa là nền tảng, vừa là lý tưởng của dân chủ; Ngược lại, dân chủ là điều kiện để thực hiện quyền con người, là thể chế chính trị bảo đảm và thực thi quyền con người. Mỗi giai đoạn dân chủ đều phản ánh sự tiến bộ của nhân quyền, dân chủ càng phát triển thì nhân quyền càng được khẳng định. Quyền con người (Quyền con người) là một phạm trù chính trị, lịch sử, pháp lý - xã hội và là vấn đề nhạy cảm, phức tạp nên luôn có những cách hiểu khác nhau, từ khái niệm, nội dung đến phương thức. Với việc thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, lần đầu tiên trong lịch sử, quyền con người được công nhận và bảo vệ rộng rãi. Theo Văn phòng Cao ủy Nhân quyền của Liên hợp quốc: “Quyền con người là những biện pháp bảo vệ pháp lý phổ quát nhằm bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành vi hoặc thiếu sót làm tổn hại đến sản phẩm, các quyền và tự do cơ bản của con người” (5) . Luật nhân quyền quốc tế cũng đặt ra nghĩa vụ của các quốc gia và các bên mắc nợ khác phải có trách nhiệm duy trì các biện pháp bảo vệ và ngăn chặn vi phạm. Do đó, Liên hợp quốc chủ yếu giải quyết khía cạnh pháp lý của quyền con người, nghĩa là các bảo đảm pháp lý trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người. Quan điểm tư sản phóng đại khía cạnh cho rằng quyền con người là tự nhiên, 'bẩm sinh', tức là con người sinh ra đã có quyền; quyền con người là nhu cầu cơ bản của con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của mỗi người; Con người có các quyền và tự do đơn giản vì họ có những phẩm chất tự nhiên của con người. Như vậy, quan điểm tư sản cho rằng nhân quyền là những quyền vốn có được ban cho mọi cá nhân mà không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hay quan điểm chính trị, dân tộc, xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các điều kiện khác. Với cách nhìn như vậy, các nước phương Tây đã tuyệt đối hóa tính phổ quát của quyền con người, coi quyền con người là cao nhất, không có thời gian, không gian, biên giới. Vì vậy nơi nào họ cho rằng có sự vi phạm nhân quyền, nơi đó họ sẽ tiến hành các hoạt động can thiệp. Theo học thuyết Mác - Lênin, quyền con người là quyền của tất cả mọi người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của con người được pháp luật công nhận và bảo vệ (6) . Trong lĩnh vực pháp luật, quyền con người được chia thành hai nhóm chính là quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Quyền con người được hình thành từ nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Quyền con người tuy bắt nguồn từ quyền tự nhiên, nhưng không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng, cải cách xã hội và lịch sử phát triển của loài người. Quyền con người có các đặc điểm: là sản phẩm của quá trình phát triển lịch sử; là những giá trị gắn với con người với tư cách cá nhân và với tư cách là thành viên của cộng đồng, xã hội; được thừa nhận và bảo đảm thực hiện trong hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế; là tổng thể các quyền cơ bản vốn có của con người, thể hiện nhu cầu, năng lực, quyền tự do và nhân phẩm của con người.
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam thể hiện đầy đủ tất cả các quyền cơ bản, phổ biến của con người được nêu ra trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm 1948 và các công ước quốc tế khác của Liên hợp quốc về quyền con người. Nhà nước Việt Nam luôn xác định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”(7).
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân (Trong ảnh: Múa sênh tiền trong lễ hội Chử Đồng Tử (tỉnh Hưng Yên)) _Ảnh: VNP
Việt Nam quan niệm quyền con người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng đồng. Trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một quốc gia nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế và văn hóa của mình lên một quốc gia khác. Các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc, cộng đồng; Quyền phải đi đôi với nghĩa vụ. Chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân nhất định mà không quan tâm đúng mức đến quyền phát triển, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của cả cộng đồng là cách đề cập một chiều. Do sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển và các giá trị văn hóa truyền thống, mỗi quốc gia có cách tiếp cận quyền con người khác nhau. Không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc lợi dụng vấn đề nhân quyền làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, kích động đụng độ, gây áp lực chính trị, thậm chí dùng vũ lực hoặc tạo điều kiện xấu trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại. với các nước khác. Trong bối cảnh có giai cấp đối kháng hiện nay, quyền con người luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng, chính trị hóa để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch sử dụng chiêu thức chính trị “ngoại giao nhân quyền” để áp đặt tiêu chuẩn, “xuất khẩu” nhân quyền phương Tây ra toàn cầu thông qua luận điểm về “giá trị phổ quát” của nhân quyền con người. Họ thường áp đặt cho các nước khác các giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây trên mọi lĩnh vực, như xây dựng, thực thi pháp luật, xây dựng thể chế, thúc đẩy sự phát triển của “xã hội dân sự” để cân bằng chính quyền.
Lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền chống phá Việt Nam luôn là một trong những hoạt động nguy hiểm trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch dưới chiêu bài “nhân quyền trên hết chủ quyền”, “an ninh con người trên hết là an ninh quốc gia”, “an ninh con người là trên hết”. quyền không biên giới quốc gia", "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự". Dân chủ, nhân quyền là "cái cớ", "vỏ bọc" cho hoạt động can thiệp, gây sức ép của các thế lực thù địch nhằm thúc đẩy chuyển biến chính trị ở Việt Nam, đồng thời đồng thời là khẩu hiệu, biểu ngữ tuyên truyền, xuyên tạc, kích động, tạo khuynh hướng dân chủ cực đoan, tập hợp lực lượng chống đối, biểu tình, tiến tới hoạt động khủng bố, bạo loạn, lật đổ. Thực tế diễn biến chính trị ở một số nước trên thế giới trong thời gian qua cho thấy, phần lớn những bất ổn chính trị - xã hội bắt nguồn từ nhận thức lệch lạc về dân chủ, nhân quyền và âm mưu lợi dụng dân chủ, nhân quyền. Vì vậy, hiểu đúng về dân chủ, nhân quyền và bản chất của sự lợi dụng dân chủ, nhân quyền giúp nâng cao cảnh giác cách mạng, đồng thời có cơ sở chính trị, khuôn khổ pháp lý để đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền./.
-----------------------------
(1) V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t. 32, tr. 164
(2) Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 293
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khoá VI, VII, VIII, IX), Nxb. Sự Thật Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2020, phần I, tr. 422
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Sự Thật Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2021, t. TÔI,
P. 172 - 174
(5) Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: hỏi đáp về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012, tr. 21
(6) Xem: Sổ tay cao cấp lý luận chính trị (Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội), Hà Nội, 2014, tr. số 8
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Sự Thật Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2021, t. Là, tr. 71
Nội dung bài viết:
Bình luận