
đất công điền là gì
1. Khái niệm chế độ công điền
Đất công (terre publique) là một hình thức sở hữu nhà nước về đất đai trong xã hội phong kiến Việt Nam và ở một mức độ nào đó vẫn được duy trì dưới thời Pháp thuộc. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã thiết lập chế độ súng công, ruộng đất công để ban cấp cho những người được phong tước, quan chức, cấp bổng lộc cho quan lại binh lính, hoặc chia cho nhân dân cho đến khi họ đã đến tuổi lưu lạc năm trở lên) làm ruộng và đóng thuế. Đất công, đất công bao gồm:
1) Ruộng đất được chia cho nhân dân luân phiên canh tác nộp địa tô cho nhà nước;
2) Các loại ruộng thứ bậc, đồn điền, đất hoang và một phần đất chùa chiền.
Thực hiện chế độ công điền và công điền, vương hầu, quý tộc, quan lại được cấp ruộng đất nhưng thực chất họ là những người thay mặt nhà nước phong kiến quản lý và thu tô mà không có tài sản ruộng đất được cấp. Mặt khác, nhà nước phong kiến không lấy công điền của xã này chia cho dân cư xã khác mà sử dụng trong khuôn khổ công xã, làng xã. Nhà nước phong kiến đã áp đặt những hình phạt nghiêm khắc đối với những ai vi phạm chế độ công điền, công điền, như Điều 342 của Bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) quy định: “Bán công điền hay bán ruộng đất”. , thì sẽ bị phạt gậy - Biêm hai mươi tư” và điều 343 quy định: “Chiếm ruộng cày vượt quá mức quy định, thì bị phạt 80 trượng”. Việt Nam, ngay từ năm 1921, đã có sự phê phán cá nhân. Luật An Nam cấm mua bán tất cả ruộng đất. Ngoài ra, 1⁄4 diện tích đất canh tác được sử dụng làm tài sản chung. Ba năm một lần, người ta chia đất này. Mỗi cư dân trong làng nhận được một phần. Điều đó không ngăn cản một số người trở nên giàu có, bởi vì 3⁄4 người từ các quốc gia khác có thể. mua đi bán lại mà cứu được nhiều người thoát nghèo” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, tr: 36). Chế độ công điền, công điền bị bãi bỏ trong cải cách ruộng đất
2. Điều lệ tạm thời quy định việc sử dụng công điền công thổ
(Đính kèm theo Sắc lệnh số 87-SL ngày 5-3-1952)
Phân bổ đất công hợp lý, nhằm nâng cao đời sống nông dân, tăng gia sản xuất là một điểm trong chính sách đất đai của Nhà nước.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám thành công, việc chia ruộng đất công, công điền từng bước được điều chỉnh. Để việc phân chia các cấp cho hợp lý trong thời kỳ kháng chiến, Chính phủ tạm thời quy định như sau:
3. Cách chia
Điều 4: Tài sản công cộng của làng sẽ được chia sẻ giữa các cư dân trong làng. Chỉ nơi nào có điều kiện thích hợp (ví dụ có nhiều ruộng và số ruộng của các thôn gần như bằng nhau…) và người dân đồng thuận thì mới tập hợp thành xã để chia.
Điều 5: Diện tích chia cho mỗi nhân khẩu không được quá 5000 mét vuông (nửa aptô, 1/2 ha).
Cũng không nên chia nhỏ, không có lợi cho việc tăng sản lượng. Nếu phần thừa chia cho nhân dân trong thôn và được nhân dân đồng ý thì Uỷ ban nhân dân xã xét chia cho thôn lân cận thiếu ruộng để chia cho vệ quốc quân, bộ đội địa phương, đến các thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, nông dân nghèo.
Điều 6: Nếu của công ích quá nhỏ không thể chia cho mọi người thì chỉ nên chia cho thương binh, bệnh binh, vệ quốc quân, quân nhân địa phương và gia đình liệt sĩ, hoặc sung công quỹ để sử dụng. nông dân.Người nghèo kiếm được ít tiền thuê nhà.
Điều 7: Thương binh, bệnh binh, vệ quốc đoàn, bộ đội địa phương và gia đình liệt sĩ có quyền nhận phần ruộng tốt hơn hoặc nhiều hơn các phần ruộng khác. Về nguyên tắc, thương, bệnh binh nên được chia đủ đất ở, tùy theo điều kiện từng địa phương.
Điều 8: Về nguyên tắc, phạm vi công cộng phải được chia sẻ giữa các cư dân, nhưng nếu cần thiết, có thể thêm vào quỹ thành phố nhiều nhất là 20% bề mặt. Việc này do HĐND xã đề nghị và được UBND tỉnh phê duyệt. Ruộng bị nhổ sẽ chia cho người nghèo nhận hoa màu và đóng một ít tiền thuê vào công quỹ xã.
Điều 9: Thời hạn phân chia công điền tuỳ theo hoàn cảnh từng địa phương và định kỳ từ 3 đến 5 năm một lần (phân chia lớn). Những nơi có nhiều ruộng đất công sẽ trích một số ruộng đất công để chia hàng năm cho những người đến tuổi trưởng thành (chia thành từng loại nhỏ). Số ruộng công chưa khai thác từ công điền mà chưa chia sẽ được chia cho nông dân nghèo nhận hoa màu và nộp tô nhỏ vào công quỹ xã.
Nếu người được chia công sản chết thì cha mẹ, vợ, con của người đó tiếp tục được hưởng phần công sản cho đến hết năm nay, sau đó sẽ trả lại cho thôn, xã.
Nội dung bài viết:
Bình luận