đạo đức nghề nghiệp trong khoa học công nghệ

 1.Đặt vấn đề:

Trong xã hội pháp quyền, hoạt động thực sự của công dân phải gắn với “dân chủ với kỷ cương, pháp luật”, tức là phải có sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải có dân chủ cho công dân, bởi “quyền”  ở đây  thể hiện  là điều kiện làm chủ của công dân, đồng thời là phương tiện huy động, phát huy mọi tiềm năng, nội lực vốn có trong mỗi công dân để  đấu tranh cho xã hội. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa dân chủ trong xã hội thì hậu quả sẽ dẫn đến tình trạng công dân vô trách nhiệm, mất trật tự, thậm chí là xung đột xã hội. Vì vậy, mặt đối lập biện chứng của dân chủ là kỷ luật, là nghĩa vụ của công dân. Kỷ luật (nghĩa vụ) làm cho hoạt động dân chủ của công dân có trách nhiệm hơn, bảo đảm  xã hội phát triển ổn định,  trật tự, tránh dẫn đến xung đột xã hội.  Tương tự như vậy, trong hoạt động nghiên cứu khoa học  chân chính cũng phải có sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của nhà khoa học, đó là dân chủ phải đi đôi với trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Đối với NKH, quyền được hưởng của họ tức là phải được đảm bảo  dân chủ. Phải có dân chủ vì dân chủ là điều kiện đầu tiên và cơ bản nhất cho hoạt động nghiên cứu khoa học và  phát triển khoa học; đồng thời là phương thức quan trọng nhất để thu hút và phát huy trí tuệ, tiềm năng của mỗi khách hàng. 

 Dân chủ đã thể hiện “quyền  hưởng”,  chỉ là cú hích từ bên ngoài. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học cũng cần có sự cộng hưởng  của “bổn phận” của thân chủ, tức là sự cộng hưởng của các yếu tố bên trong nhà khoa học, đó  là trách nhiệm và đạo đức của thân chủ. trách nhiệm của NKH là đưa khoa học phát triển đúng hướng, bảo đảm  sản phẩm khoa học thực sự phục vụ  tiến bộ xã hội; và đạo đức trong khoa học là điều kiện bảo đảm cho khoa học chân chính phát triển. 

 Vậy cần hiểu thế nào là dân chủ, trách nhiệm và đạo đức trong hoạt động nghiên cứu khoa học? Dựa trên cách tiếp cận của chúng tôi, chúng tôi sẽ phân tích nội dung của nó và các yêu cầu tương ứng  trong thực tế. 

2. Nội dung dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học 

 Theo chúng tôi, để có  dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học cần  xem xét và xử lý hài hòa các yếu tố sau: 

 Thứ nhất, cần xây dựng và thực hiện văn hóa ứng xử dân chủ trong nghiên cứu khoa học. 

 Xây dựng và thực hiện văn hóa ứng xử dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học là một bộ phận cấu thành cơ bản của văn hóa dân chủ. Ở đây, cần phân biệt và làm rõ bốn nội dung: thứ nhất, văn hóa ứng xử dân chủ giữa thân chủ và thân chủ (quan hệ nhân - nghĩa bình đẳng); thứ hai, văn hóa ứng xử dân chủ giữa giới khoa học với cộng đồng khoa học (tương tác hai chiều tự do, lành mạnh và tích cực); thứ ba, văn hóa ứng xử dân chủ giữa khoa học và chính trị (tức là khoa học và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ nhưng tương đối độc lập. Khoa học cung cấp cơ sở khoa học và lý luận cho chính trị; ngược lại, chính trị  hướng dẫn khoa học. Ranh giới tương đối giữa khoa học và chính trị) phải được xác định); Thứ tư, văn hóa ứng xử dân chủ giữa khách hàng và nhà quản lý (nhà quản lý không thể làm thay khách hàng; ngược lại, khách hàng không thể tách rời, đối lập với nhà quản lý) 

 

 Thứ hai, chúng ta phải dân chủ trong quá trình tổ chức nghiên cứu khoa học. 

 Ở nước ta, quá trình đặt (đào tạo) nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đã mang tinh thần dân chủ vì được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân chủ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học thể hiện  ở việc tạo lập và tăng cường quyền tự chủ của các tổ chức và nhà khoa học. Tự chủ trong nghiên cứu khoa học là  tạo lập mối quan hệ dân chủ có trách nhiệm giữa chủ nhiệm đề tài với cơ quan chủ trì và cá nhân  người nghiên cứu  đề tài; mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và cơ quan chủ quản chủ thể. Hiện  mối quan hệ này vẫn chưa rõ ràng do có đơn vị buông lỏng chủ nhiệm công trình; có đơn vị can thiệp quá sâu vào công việc của đề tài (vào việc xây dựng và tổ chức lực lượng nghiên cứu, vào việc điều phối kinh phí, v.v.). 

 Dân chủ trong  đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện  dự án, đề án, đề tài, chương trình... Nghiên cứu khoa học phải  khách quan, công bằng (nghĩa là việc đánh giá, nghiệm thu  phải căn cứ vào nội dung  hợp đồng khoa học, bảo đảm tính khoa học,  chính xác,  hợp lý,  thực tiễn..., trên cơ sở ý kiến ​​tư vấn của hội đồng khoa học và quy chế xây dựng của thủ trưởng cơ quan  khoa học, cơ quan chủ quản). 

 Thứ ba, dân chủ để bảo đảm quyền lợi  của cá nhân, tổ chức tham gia nghiên cứu khoa học. 

 Tức là phải có sự hài hòa về lợi ích (đâu là lợi ích cá nhân; đâu là lợi ích tập thể,  lợi ích xã hội) khi tham gia nghiên cứu khoa học và lợi ích này phải được đánh giá dựa trên chất lượng, hiệu quả của nghiên cứu khoa học. Thứ tư,  tạo  môi trường cơ chế, chính sách  bảo đảm dân chủ trong nghiên cứu khoa học. 

 Cấu trúc của động cơ nghiên cứu khoa học có 3 thành phần cơ bản: một là đáp ứng nhiệm vụ chính trị; thứ hai, cung cấp các nhu cầu vật chất (thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình; mua sắm những tiện nghi cho cuộc sống hàng ngày, cho công việc sáng tạo, v.v.); Thứ ba, đáp ứng nhu cầu tinh thần (sự khẳng định  phẩm chất cá nhân,  đam mê nghề nghiệp,…). Các yếu tố này duy trì mối quan hệ biện chứng giữa chúng và dẫn đến các quan điểm: bổ sung cho nhau, hài hoà hoặc triệt tiêu lẫn nhau. Khi động lực bao gồm ba yếu tố đó, tức là vừa đáp ứng được nhiệm vụ chính trị, vừa có thu nhập cao, vừa khẳng định được địa vị (điều này rất lý tưởng). Tại đây, NKH sẽ đem hết tâm  trí  để sáng tạo. Khi động lực chỉ được tạo thành từ thành phần thứ nhất và thứ hai, khách hàng sẽ mất đi niềm đam mê và sự nhiệt tình. 

images?q=tbn:ANd9GcT1tIZf3wboiCEC8-q9UWnBU4WQCPd_QytXG0CtF8fjutKJGMB6aFtJaYynpj1gINOa_bY&usqp=CAU

 Như vậy, công việc sáng tạo sẽ  nặng tính hành chính,  chuyên môn, nghiệp vụ sẽ bị mai một dần. Khi động lực bao gồm các thành phần thứ nhất và thứ ba, NKH sẽ kém hấp dẫn hơn trong sáng tạo. Khi động lực được cấu thành bởi thành phần thứ hai và thứ ba thì sự sáng tạo của họ sẽ trở nên vô nghĩa, hiệu quả của  sản phẩm sáng tạo không cao, lâu dần  hai thành phần này  mất dần vai trò động lực. 

 Vì vậy, để bảo đảm  dân chủ trong nghiên cứu khoa học, cần tạo  môi trường, cơ chế, chính sách để gắn kết, thống nhất  ba yếu tố cấu trúc  động lực nghiên cứu khoa học nêu trên.  Thứ năm, dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học còn phải được bảo đảm thông qua xã hội hóa trong hoạt động nghiên cứu khoa học. 

 Đó là xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, là  chủ trương, đường lối lớn của Đảng và nhà nước ta. Xã hội hóa trong hoạt động khoa học  là tăng cường, khuyến khích các cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội tham gia, đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Chỉ khi đó chúng ta mới tạo ra cơ hội hoạt động, cơ hội phát triển và môi trường cạnh tranh lành mạnh trên thị trường khoa học. Tại thị trường này, NKH có quyền giới thiệu, trao đổi các sản phẩm khoa học và chịu trách nhiệm về chất lượng  sản phẩm khoa học của mình. Tọa đàm khoa học: “Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của cán bộ, viên chức Học viện Hành chính Quốc gia”, ngày 29/08/2019. Trách nhiệm trong hoạt động nghiên cứu khoa học 

 Thứ nhất, cần cá nhân hóa trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. 

 Chủ thể hoạt động nghiên cứu khoa học tự chịu trách nhiệm về hoạt động khoa học và công nghệ của mình, đặc biệt là  về chất lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học, dữ liệu, bằng chứng sử dụng cho nghiên cứu,  phương pháp nghiên cứu,  công bố kết quả nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu và mọi hậu quả  của việc công bố, chuyển giao đó. Ngoài ra, tới đây phải  tự chủ  tài chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Thực tế ở nước ta hiện nay, quyền chi tiền cho nghiên cứu khoa học không thuộc về nhà khoa học mà do những người không làm nghiên cứu khoa học quyết định, điều này đã dẫn đến tình trạng  phải “ăn khách”, phải chạy theo người khác và do đó nhà khoa học không phải đầu tư nghiên cứu khoa học thực chất mà phải chú trọng đến các thủ tục hành chính để thực hiện nghiên cứu khoa học. Thứ hai, chủ thể nghiên cứu khoa học phải có trách nhiệm công dân nghiên cứu khoa học. 

 Nhận thức được trách nhiệm công dân của các chủ thể nghiên cứu khoa học đòi hỏi các nhà khoa học hay các cơ quan khoa học không  chỉ chịu trách nhiệm cá nhân mà tự ý để xảy ra tình trạng lãng phí khoa học. Quyền công dân ở đây là trách nhiệm đi tìm  chân lý, đồng thời thấy được nghĩa vụ đối với xã hội,  phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ các hoạt động văn hóa, nhân văn, giữ bí mật nhà nước về khoa học và công nghệ, bảo vệ lợi ích của nhà nước và xã hội. 

 Thứ ba, xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu nghiên cứu khoa học. 

 Khi nói đến trách nhiệm của người “đầu tàu” trong nghiên cứu khoa học, đó là  nói đến mối quan hệ giữa lãnh đạo và  dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Quá trình nghiên cứu khoa học cũng mang tính đa nguyên. Tính đa nghĩa của quá trình nghiên cứu khoa học là một trong những đặc trưng định lượng của nó. Tính đa nghĩa của quá trình nghiên cứu khoa học thể hiện ở chỗ, quá trình nghiên cứu khoa học không  chỉ do một nhà khoa học nào đó tiến hành mà là một quá trình có nhiều người tham gia. Nhưng đa nguyên trong nghiên cứu khoa học không những không loại trừ mà còn bao gồm cả lãnh đạo với tư cách là một yếu tố không thể thiếu của đa nguyên  khoa học. 

  Với những phẩm chất và năng lực đặc biệt, các nhà khoa học đầu ngành đã là những người tiên phong, tạo ra những hướng đi và mục tiêu mới  cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Vì vậy, khi nói về dân chủ trong nghiên cứu khoa học, việc nhấn mạnh  nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số là không phù hợp. Điều này là do chân lý khoa học thường không thuộc về số đông. 

3.Đạo đức nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học 

 Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học, như đã phân tích ở trên, có những đặc điểm và yêu cầu cụ thể. Là nhà khoa học, người coi nghiên cứu khoa học là  sự nghiệp suốt đời, tức là phải đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghiên cứu khoa học. Trong đó, cần yêu cầu những năng lực, phẩm chất nhất định của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với các nhà khoa học như sau: 

 

 (1) Có năng lực tư duy trừu tượng, biết  khái quát hóa và trừu tượng hóa một cách nhuần nhuyễn, đi từ cái riêng đến cái chung, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai, ngày càng đi sâu vào bản chất của sự vật, phản ánh ngày càng đầy đủ, chính xác  thế giới hiện thực khách quan.  (2) Có tính nhạy cảm khoa học (khả năng trực giác cao) để phát hiện “cái mới”,  yếu tố mới,  thuộc tính mới,  vấn đề mới,  quy luật mới trong thực tiễn. 

  (3) Có khả năng  tư duy logic, có sức thuyết phục trên cơ sở các bằng chứng liên quan để đề xuất giả thuyết, nghiên cứu lập luận, lập luận  để  xây dựng  lý thuyết từ các giả thuyết.  

 (4) Có đức tính cần cù, tỉ mỉ, chu đáo, chính xác, trung thực, dũng cảm, quên mình, sẵn sàng hy sinh vì khoa học, khiêm tốn, sẵn sàng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến ​​phê bình có căn cứ để điều chỉnh phương hướng nghiên cứu khoa học của mình. 

 Về đạo đức nghề nghiệp của NKH, điều quan trọng là phải dũng cảm trên con đường gian khổ đầy cạm bẫy và rủi ro trí tuệ để đến gần hơn với sự thật. Các nhà khoa học chân chính  phải kiên quyết đấu tranh chống cái xấu, đồng thời phải biết và dám bảo vệ cái đúng, phải dũng cảm  bảo vệ chân lý khoa học. Trong phần đầu của Bộ tư bản, Mác đã từng nói chỉ lắng nghe những phản biện khoa học và xây dựng còn các loại ý kiến ​​khác thì Mác sẽ hành xử như  một nhà thơ nổi tiếng đã nói: “Con đường ta đi, nói gì ta cũng mang”. 

 Như vậy, liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của khách hàng, việc tuyên truyền pháp luật và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của khách hàng là vô cùng cần thiết.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo