Người Thái ở Việt Nam chủ yếu sinh sống ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Nghệ An, Thanh Hóa và rải rác ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và Tây. Người Thái còn có các tên gọi khác là Tày và có các nhóm Tày Đăm, Tày Khao, Tày Mười, Tày Thành, Hàng Tổng, Pù Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc ngữ hệ Tày - Thái.
1. Lịch sử và văn hóa tiêu biểu của dân tộc Thái
Trải qua các cuộc di cư trong lịch sử, dân tộc Thái đã có mặt ở Việt Nam hàng trăm năm nay, họ có nhiều kinh nghiệm trong việc đắp đê, đào mương, dựng cọc, máng lấy nước phục vụ nông nghiệp. Có câu “Xa ăn lửa, Thái ăn nước”. Nghề trồng lúa nước là hoạt động sản xuất chính của người Thái, gạo là nguồn lương thực chính, đặc biệt là gạo nếp. Tuy nhiên, người Thái cũng làm nương để trồng lúa, ngô, lạc, vừng... và nhiều loại hoa màu khác. Trong mỗi gia đình còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, trồng bông, nuôi tằm dệt vải, có nơi còn làm gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là những tấm vải thổ cẩm với hoa văn độc đáo. Màu sắc rực rỡ độc đáo, lâu dài. Trang phục dân tộc Thái được khen ngợi đơn giản, duyên dáng và sang trọng nhưng ít ai biết rằng để có được bộ trang phục “hút hồn” như vậy, người ta đã phải khéo léo kết hợp từng chi tiết để tạo nên hình ảnh rất riêng của các cô gái Thái.
Trang phục truyền thống của phụ nữ Thái bao gồm: áo ngắn (cắt cỏ), áo dài (đã giặt và cạp), váy (xỉn), thắt lưng (xuống), khăn (cọc), mũ (cúp), xà cạp (pêpkha kha), các loại bông tai, dây chuyền, vòng tay và phụ nữ. Shao Grass (áo ngắn, bó sát, có hàng khuy và con bướm) có thể được may bằng nhiều loại vải với nhiều màu sắc khác nhau. Chính những hàng cúc bạc hoặc kim loại đã tạo nên chiếc áo đặc trưng cho trang phục của phụ nữ Thái. Theo quan niệm dân gian của người Thái, hai hàng khuy bạc trên hai tháp áo trước đây là biểu tượng cho sự kết hợp giữa nam và nữ, tạo nên sự trường tồn của giống nòi. Ngay từ khi còn nhỏ, các cô gái Thái đã được mẹ và bà dạy cho cách thắt lưng "yêu sử dụng", một loại thắt lưng bằng vải, để khi lớn lên, họ đều có thân hình "eo ót", tức là thắt lưng ở dưới cùng của thắt lưng của họ. Vì vậy, khi trưởng thành, các cô gái Thái uyển chuyển với những đường cong tuyệt mỹ. Phải chăng phụ nữ Thái ở mọi lứa tuổi đều có thân hình cân đối hài hòa và càng nổi bật hơn khi khoác trên mình bộ trang phục của dân tộc mình. Trong trang phục truyền thống, nam giới mặc quần áo màu chàm hoặc gấm chàm, nhưng vài chục năm gần đây nam giới chủ yếu chuyển sang trang phục cổ trang. Phụ nữ Thái ngày nay vẫn gắn bó với trang phục truyền thống: áo bó sát màu trắng, xanh hoặc đen có khuy trắng bạc, váy đen dài xắn lên hoặc thêu hình gấu. Ngoài váy, áo của phụ nữ Thái đen còn có chiếc khăn Piêu được thêu bằng nhiều sợi chỉ sặc sỡ, đẹp mắt. Đồ trang sức của phụ nữ chủ yếu là vòng bạc, lắc bạc đeo cổ, đeo tay; Bông tai bạc hoặc vàng. Bản Mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài chục đến hơn trăm nóc nhà nằm cạnh nhau, người Thái ở nhà sàn, kết cấu bằng gỗ, có hàng cột gỗ vuông hoặc tròn bằng đá, nhà sàn cao . , lợp bằng lá cọ hoặc ngói. Mỗi nhà tùy hoàn cảnh gia đình mà xây 3 gian hay 5 gian. Người Thái đen khi làm nhà thường tạo mái theo hình mai rùa và trang trí hai con cút trên nóc theo phong tục cổ xưa. Trong hôn nhân gia đình, tục ở rể vẫn được duy trì, vài năm sau vợ chồng có con thì về ở với chồng rồi ly thân ra ở riêng. Về thế giới tâm linh, người Thái quan niệm đa thần và giữ tục thờ cúng gia tiên. Do cuộc sống gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên có tục lấy nước đêm giao thừa, lễ đón tiếng sấm năm mới và một số lễ hội thu hoạch khác. Đối với người chết, họ tin rằng họ tiếp tục “sống” ở thế giới bên kia, nên đám ma là lễ tiễn người đã khuất về “mường trời”. Người Thái có nhiều họ, mỗi họ lại có những tục lệ kiêng kỵ khác nhau, chẳng hạn: họ Lò kiêng ăn chim Tang Lo, họ Quang kiêng hổ...
Về văn học nghệ thuật, do người Thái có kinh sách riêng nên kho tàng dân gian như truyền thuyết, ca dao, truyện kể, thơ, văn, ca dao, v.v. tính toàn vẹn thông qua hồ sơ giấy hoặc tờ. Một số truyện cổ, thơ nổi tiếng như “Xanh chu xoxo”, “Khun Lù, Nàng ua”… Người Thái rất thích hát, đặc biệt là ở khắp mọi nơi. Có lối ngâm thơ hoặc hát theo lời ca, có đệm và múa. Nhiều điệu múa độc đáo như múa xòe, múa sạp, múa quạt đã được trình diễn trên các sân khấu trong và ngoài nước, thu hút đông đảo khán giả. Vào dịp lễ hội, quất và ném còn là hai trò chơi mang nét văn hóa đặc trưng nổi tiếng của người Thái.
2. Văn hóa ẩm thực độc đáo
Một trong những nét đặc sắc nhất của người Thái chính là văn hóa ẩm thực. Người Thái rất thích hương vị đậm đà, bổ dưỡng của các món nướng. Các món thịt trâu, bò, cá, gà nướng được người Thái tẩm ướp gia vị rất công phu. Gia vị để tẩm ướp là hạt tiêu rừng hay còn gọi là tiêu rừng, ớt, tỏi, gừng, muối... Trước khi tẩm ướp với thịt, các gia vị này cũng được nướng chín tới, tỏa mùi thơm phức. Trong mâm cơm của người Thái có rất nhiều món, mỗi món có một hương vị đặc trưng riêng. Tất cả các loại thịt, gia cầm hoặc hải sản đều có thể được nướng. Thịt thái mỏng, tẩm ướp gia vị, dùng xiên hoặc kẹp tre tươi đặt trên than nóng; hoặc thịt bằm, nghiền với trứng, gói bằng lá chuối, lá dong, vắt ráo, nướng trên than hồng hoặc vùi trong tro nóng; Thịt khi chín rất thơm, không bị nhũn. Món cá nướng hấp dẫn với mùi thơm của cá, vị cay nồng của ớt. Món “đỉnh” cũng là cá nướng, nhưng thường là cá to như trắm, trôi, chép… gập xuống, để ráo nước, xát một lớp muối rang; Ướp ớt tươi nướng giã nhỏ, sao với mắc khén, để cá thấm gia vị, để thịt cá săn lại rồi cho lên than hồng. Cá chín có mùi thơm hấp dẫn, dùng để uống rượu rất độc đáo. Sản phẩm từ cá được người Thái chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, độc đáo và ngon miệng: cá hấp trong nồi gỗ, người Thái gọi là cá tuyết; “Pa Giai” là cá hun khói.
Do đặc thù của vùng cao, người Thái thường kho cá khô trên gác bếp. Khi có khách, nhà xa chợ, món ăn chưa kịp dọn, cá sẽ được nướng lại cho thơm, rượu sẽ được rót mời khách nhâm nhi. Và trong bếp, các thành viên trong gia đình tiếp tục chế biến thức ăn, dọn từng món cho khách. Đó là cách để giữ chân khách, thể hiện lòng hiếu khách của người dân phố núi. Ngoài món nướng, người Thái còn có biệt tài biến tấu các loại gia vị để ăn kèm với món luộc, món hấp, hương vị thơm ngon. Đến tỉnh Điện Biên, du khách sẽ được thưởng thức món gà “cộp mác” - loại gà được nuôi thả trên đồi, luộc chín với gia vị thập cẩm thơm ngon, không ngấy, uống với rượu Mông pê hoặc lẩu đều rất thú vị. Thịt cá, người miền núi còn có các món gỏi, luộc, canh chua… với hương vị thơm ngon đặc trưng. Xôi là món ăn truyền thống của người Thái. Người Thái có một phương pháp rất kỹ thuật là đồ xôi bằng que gỗ. Xôi dẻo, xốp, mềm nhưng không dính. Nếp được ninh trong nồi áp suất hoặc đậy bằng sọt, ủ nóng, giữ cho cơm dẻo lâu. Cơm lam là đặc sản của người Thái, thường được dùng trong các dịp lễ, Tết hoặc đãi khách quý. Cùng với các chuyến du lịch, du khách có thể mang theo xôi, vài miếng cơm lam để ăn dọc đường hoặc khi nghỉ chân tại các điểm tham quan sẽ rất tiện dụng. Vào mỗi mùa, người Thái chiều lòng thực khách bằng những sản vật như: măng đắng, măng ngọt, mồng tơi, rau ngổ... rắc thêm gia vị thập cẩm, đậm đà với vị cay của ớt, riềng, muối rang mặn mặn, mùi thơm của rau. nhiều du khách một khi họ nếm thử nó.
Nội dung bài viết:
Bình luận