Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội – Sự lựa chọn phù hợp xu thế phát triển của thời đại, khát vọng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam

Cách đây tròn 110 năm, ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã rời cảng Sài Gòn trên con tàu Amiral Latouche-Tréville sang Phương Tây, mang theo mình một khát vọng cháy bỏng tìm đường cứu nước để đem lại: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Cuộc hành trình qua 3 đại dương, 4 châu lục (Á, Âu, Phi, Mỹ) và gần 30 quốc gia, hàng trăm thành phố lớn, nhỏ; tiếp xúc với nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa, vừa lao động vừa học tập, nghiên cứu lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới để rồi tìm thấy ánh sáng cách mạng của thời đại: Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, sự kiện Bác Hồ quyết tâm đi tìm đường cứu nước là một dấu son mở đầu trang sử mới trong lịch sử dân tộc ta. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.”[1]

1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nền độc lập dân tộc bị xâm phạm, trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn lúc đầu chống cự, sau dần dần nhượng bộ xin hòa, cuối cùng đứng lên giữ ngôi và lợi ích riêng tư của hoàng gia. Nhân dân ta với lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sục sôi đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp lan rộng ra cả ba miền Bắc, Trung, Nam: Trương Định, Nguyễn Trung Trực... từ Nam ra); Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng… (Miền Trung); Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Quang Bích… (Khu vực phía Bắc). Nhưng các cuộc nổi dậy này đều thất bại. Rồi đến các phong trào yêu nước, như phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo... đều có thất bại. Cách mạng Việt Nam đã đi vào ngõ cụt giữa đường.
Đứng trước tình trạng khủng hoảng về phương tiện cứu nước, Hồ Chí Minh xác định: “Tôi muốn ra nước ngoài thăm nước Pháp và các nước khác. Sau khi thấy họ đang làm như thế nào, tôi sẽ trở lại để giúp đỡ đồng bào của chúng tôi.
Ngày 5/6/1911, từ bến Nhà Rồng, Bác lấy tên là Văn Ba sang Pháp làm phụ bếp trên thương thuyền Đô đốc Latouche - Tresville, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 5/6/1911, từ bến Nhà Rồng, Bác lấy tên là Văn Ba sang Pháp làm phụ bếp trên thương thuyền Đô đốc Latouche - Tresville, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. (Ảnh: TTXVN)
Căn cứ vào thực tế sống, lao động, học tập, hoạt động và nhận thức của Bác Hồ, ta có thể hình dung quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thành các giai đoạn cụ thể sau: (1) Từ năm 1911 đến năm 1920, là giai đoạn Bác khảo sát, tìm tòi và đến với chủ nghĩa Lênin (từ một thanh niên yêu nước trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên). Đây là bước nhảy vọt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, một sự chuyển biến về chất, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội); (2) Từ năm 1921 đến năm 1930, là giai đoạn Bác hoạt động ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; (3) Từ năm 1931 đến năm 1940, là giai đoạn Bác gặp nhiều thử thách gay go và kiên trì giữ vững quan điểm tư tưởng của mình; (4) Từ năm 1941 đến năm 1969, là giai đoạn Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng của Người và đường lối của Đảng ta là thống nhất và có những bước phát triển mới, toàn diện.
Trải qua gần 10 năm bôn ba (1911-1920) đầy gian truân, thử thách, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng giải phóng dân tộc năm 1776 của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789, Người rút ra kết luận: cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao động mà lại đi áp bức các dân tộc khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường đó. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Bằng trí tuệ thiên tài, phẩm chất, nhân cách và năng lực thực tiễn, từ chủ nghĩa yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi đọc bản Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người mừng đến phát khóc, ngồi trong phòng, nói lớn trước đồng bào đang đau khổ: Đây là con đường giải phóng của chúng ta. Từ sự phân tích, nhìn nhận một cách khách quan, khoa học, Người khẳng định: “Bây giờ có nhiều học thuyết, nhiều học thuyết, nhưng hệ tư tưởng xác thực nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Đây là một bước tiến rất quan trọng của cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối chính trị, mở ra một hướng đi mới trong lịch sử dân tộc.
Vẽ. (Nguồn: Báo Nhân Dân)
Vẽ. (Nguồn: Báo Nhân Dân)
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là những luận điểm sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những luận điểm này có giá trị lâu dài trong việc định hướng đường lối cách mạng Việt Nam và góp phần quan trọng vào sự phát triển lý luận của cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin khi tập trung vào nhiều vấn đề quan trọng, nhất là luận về cách mạng giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và nước phụ thuộc”. .
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng này đã đặt vấn đề giải phóng con người và hạnh phúc của con người lên hàng đầu của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc - dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ chính, nhiệm vụ dân chủ được triển khai từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì vậy, trong thời kỳ cách mạng dân tộc - dân chủ, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt và cấp bách. Kết luận này được Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích thực trạng và những mâu thuẫn khách quan tồn tại trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến ​​Việt Nam.
Lịch sử phát triển của nhân loại chứng minh độc lập dân tộc là nguyện vọng chung của mọi người. Đối với người Việt Nam, đó còn là giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và gìn giữ bằng máu xương, sức lực của bao thế hệ người Việt Nam.
Với Người, độc lập dân tộc bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đây là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn chứ không phải độc lập hình thức, nửa vời giả tạo. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc luôn gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của người lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để bước vào xã hội cộng sản; Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu trọng yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc - dân chủ, là mục tiêu hàng đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện chỉ đạo, quyết định để cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân lên .tiếp theo - cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cách mạng dân tộc - dân chủ càng triệt để thì càng tạo đầy đủ các điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Bến Nhà Rồng ngày nay. (Ảnh: Nguyễn Sinh Thành|Thanhuytphcm.vn)
Bến Nhà Rồng ngày nay. (Ảnh: Nguyễn Sinh Thành | Thanhuytphcm.vn)
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Tư tưởng này được hình thành trong Chủ tịch Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam liên tục giành được những thắng lợi lịch sử. Có thể chia thời kỳ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ từ năm 1930 đến năm 1975:

Giai đoạn 1930-1945: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong hoạt động lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ thể:

Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng các giai cấp, công nhân và giải phóng cả dân tộc bị nô dịch dưới ách đế quốc Pháp và bè lũ tay sai; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để tiến triển thành xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Con đường cách mạng Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong kiến ​​tay sai, tư sản và địa chủ chống độc lập dân tộc.
Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn dân, bao gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung gian, địa chủ nhỏ, cá nhân yêu nước, mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Lực lượng cách mạng hùng mạnh này đã đoàn kết dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Xác định đúng cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản “tổ quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chất dân chủ. có thể thắng cách mạng vô sản "dân tộc", đồng thời có tác động tích cực đến cách mạng "dân tộc". Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành thắng lợi. Đây là thắng lợi lịch sử đầu tiên của Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cuộc “kháng chiến, kiến ​​quốc”.
Thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Để đạt được mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định phải phát huy ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đồng thời ra sức vận động sự đồng tình, giúp đỡ của quốc tế.
Nét đặc sắc, độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam thời kỳ này là Người không ngừng đề ra và thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến ​​quốc”. Đường lối ấy phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ vững độc lập của Tổ quốc và từng bước xây dựng chế độ mới.
Trong tình thế hiểm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn phương pháp “dĩ bất biến, bất biến”, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, chia cắt, cô lập kẻ thù. tăng cường đoàn kết toàn dân, tìm kiếm sự giúp đỡ, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Tài thao lược, sự kiên cường, quyết đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết sâu sắc thực tiễn đất nước, các quy luật, xu thế phát triển của dân tộc và thời đại, để vững vàng chèo lái con thuyền. Cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi vẻ vang. Thời kỳ 1954 - 1975: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, hoàn thiện và phát triển tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Trong thời kỳ này, sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc - dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Các quan điểm, tư tưởng trên được thể hiện ở những nội dung chính sau:

Bám sát chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rất rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ cách mạng của từng vùng và mối quan hệ qua lại của chúng. Thực chất đó là sự hiện thực hóa nội dung của con đường cách mạng vô sản, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra và kiên quyết bảo vệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện và phát triển lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta phải tập trung mọi lực lượng đánh đổ đế quốc Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” thể hiện ý chí to lớn và quyết tâm của cả dân tộc bảo vệ những giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh đã có những chủ trương, đường lối sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam lực lượng của “ba mặt trận”: Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương chống Mỹ; Mặt trận Bình dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba mặt trận” đã làm cho cách mạng Việt Nam trở nên vô địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người đã xây dựng quan niệm tương đối đầy đủ và thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mối quan hệ giữa tính bao quát và tính đặc thù của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các vùng đối với một nước. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn khoa học về đường lối, phương pháp, biện pháp và các bước tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. *

Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống. Do tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn. Song xung đột vũ trang, xung đột lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột sắc tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nước phát triển, nhưng cạnh tranh và tranh giành thị trường, nguồn nguyên liệu, năng lượng, tài nguyên khoa học và công nghệ giữa các quốc gia, công ty. thử thách khắc nghiệt.
Một góc trung tâm TP.HCM hôm nay. (Ảnh: Nguyễn Sinh Thành | Thanhuytphcm.vn)
Một góc trung tâm TP.HCM hôm nay. (Ảnh: Nguyễn Sinh Thành | Thanhuytphcm.vn)
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đã đưa đất nước vào con đường đi lên chủ nghĩa tư bản, lâm vào cảnh đói nghèo, gian khổ, chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, bè phái. Nghèo đói và kém phát triển ngăn cản đất nước này có được nền độc lập thực sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết của các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút; đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo