1. Nguồn gốc lịch sử
Người Ê Đê đã cư trú ở Tây Nguyên từ lâu đời. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của người Ê Đê được phản ánh trong sử thi, nghệ thuật dân gian và kiến trúc. Cho đến nay, cộng đồng người Êđê ở nước ta vẫn còn tồn tại truyền thống mẫu hệ nặng nề.
Tên tự: Anak Ea Đê, Ra Đê (hay Rhade), ê Đê, egar, Đê.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dlie, Hruê, Bih, Blo, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktle, £pan...
2. Dân cư, ngôn ngữ:
* Dân số:
Theo điều tra dân số của 53 dân tộc thiểu số tại thời điểm 01/4/2019: Tổng dân số: 398.671 người. Trong đó, nam: 195.351 người; nữ: 203.320 người. Tỷ lệ dân số sống ở nông thôn: 88,9%.
* Ngôn ngữ:
Tiếng Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian (ngữ hệ Nam Đảo).
3. Phân bố địa lý
Hiện nay, địa bàn cư trú chủ yếu là tỉnh Đắk Lắk, nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa.
4. Các tính năng chính:
Thức ăn:
Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong niêu đất hoặc nồi đồng lớn. Thức ăn có muối tiêu, măng, rau củ nhặt được, cá, thịt, chim và thú săn. Đồ uống có cồn nên được ủ trong nồi nấu chậm. Gạo nếp chỉ dùng khi cúng thần linh. Nam nữ đều quen ăn trầu. Trang phục: Phụ nữ mặc váy dài đến gót chân, mùa hè ở trần hoặc mặc áo len ngắn.
Những người đàn ông mặc khố và áo len. Vào mùa lạnh, đàn ông và phụ nữ thường đắp chăn. Đồ trang sức bằng ngọc trai, vòng đồng, lắc đeo cổ, tay, chân. Cả nam và nữ đều có thói quen nghiến răng - kéo dài tai và nhuộm răng đen. Đầu đội khăn, đội mũ.
Nơi cư trú:
Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là ngôi nhà sàn dài, kiến trúc hình con thuyền với hai đặc điểm cơ bản: hai bức tường thẳng đứng dựng ở chái trên và chái; hai mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo cột chứ không kết cấu vì kèo. Không gian bên trong được chia thành hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là nhà Gah, vừa là phòng ở, vừa là nơi sinh hoạt chung của cả gia đình mẫu hệ. Phần cuối cùng, gọi là ok, dành cho các cặp vợ chồng sống trong mỗi phòng có vách ngăn bằng tre.
Lễ, Tết:
Người Ê Đê ăn Tết vào tháng 12 (tháng 12 âm lịch) khi đã thu hoạch xong mùa màng (không vào ngày nhất định, tùy theo buôn làng). Sau Tết là mừng lúa mới (hma cốc) rồi đến tết (bờm thun) mừng một vụ mùa bội thu. Đó là cái Tết lớn nhất, nhà giàu mổ trâu bò cúng thần lúa; Một gia đình khác giết mổ lợn và gà.
Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Diê và Aê Du, sau đó là thần đất (yang cán), thần lúa (yang mdie) và các vị thần khác. Phổ biến quan niệm về thuyết vật linh. Thần nông nghiệp được coi là may mắn. Sấm sét, bão, lũ lụt và ma quỷ được coi là ác thần. nghi lễ theo đuổi cả đời và lễ chúc thọ, mừng sức khỏe của mỗi cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này, nhất là nghi lễ lớn, tế nhiều trâu, bò, chè quý (ché rượu cần) thì càng được dân làng kính trọng. Quan hệ xã hội: Gia đình người Êđê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú bên vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo truyền thống tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia thành hai dòng họ để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng được gọi là làng và là đơn vị cư trú cơ bản và là tổ chức xã hội duy nhất. Người dân trong một làng thuộc nhiều chi, họ của hai dòng họ, nhưng bao giờ cũng có một gia đình làm hạt nhân. Đứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến cảng (Popinca), người này đứng ra chỉ đạo mọi hoạt động của cộng đồng dưới danh nghĩa của vợ mình.
Hôn nhân:
Người phụ nữ chủ động lấy chồng, nhờ kết nghĩa mà đi hỏi chồng, ở rể. Khi một trong hai người qua đời, gia đình, dòng họ của người mất phải có người thay thế theo phong tục “nối dõi tông đường” để người sống không bao giờ cô đơn, sợi dây tình cảm gắn bó giữa hai gia đình Les Nie và Mlo không bị phá vỡ ở bất cứ đâu theo truyền thống của tổ tiên họ.
Ma chay:
Khi có người qua đời, dòng tộc phải tiến hành. Những người chết vì già yếu, bệnh tật thường tổ chức tang lễ tại nhà rồi đưa ra nghĩa trang chôn cất. Trong quá khứ, có một phong tục là khi các thành viên trong một gia đình qua đời trong một thời gian ngắn, thì quan tài được chôn trong cùng một ngôi mộ. Do quan niệm thế giới bên kia là đại diện cho thế giới này nên người chết được chia tài sản và đặt trong mộ. Trong quá trình xây dựng nhà tang lễ, lễ bỏ mả diễn ra hết sức hoành tráng, sau đó là phần cuối của việc chăm sóc linh cữu và phần mộ.
Nghệ thuật:
Có hình thức kể chuyện khan rất hấp dẫn. Về văn học, khan là sử thi và sử thi cổ đại; Về diễn xướng, đó là hình thức ngâm ngâm kèm theo một vài động tác để chuyển tải cảm xúc. Còn ca dao thì có đối đáp, đố, hát gia phả, v.v. Âm nhạc Ê Đê nổi tiếng với dàn chiêng gồm 6 cồng, 3 cồng, một chiêng giữ nhịp và một trống mặt da.
Bên cạnh cồng chiêng, còn có các loại nhạc cụ bằng tre, nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn Tây Nguyên nhưng ít nhiều có kỹ thuật độc đáo.
5. Điều kiện kinh tế:
Người Ê Đê chủ yếu canh tác lúa nước trời theo cơ chế luân canh. Người Ê Đê ảnh 4
Nghệ nhân Ama Loan biến trái bầu khô thành trống lục lạc. (Ảnh: Báo Nhân Dân)
Gia súc được nuôi nhiều là lợn, trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà nhưng chủ yếu nuôi để lấy tín ngưỡng. Các nghề thủ công phổ biến trong nước bao gồm mây tre đan để làm đồ gia dụng, cũng như trồng và dệt bông bằng khung cửi cổ của Indonesia. Nghề gốm và nghề rèn không phát triển lắm. Trước đây, việc mua và bán được thực hiện bằng hàng đổi hàng.
Nội dung bài viết:
Bình luận