Tiếp cận khái niệm ”dân chủ” để vận dụng vào lĩnh vực giáo dục.

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ quan trọng của đất nước. Đổi mới không chỉ liên quan đến bản thân giáo dục mà còn liên quan đến tương lai và khả năng phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về đổi mới giáo dục bước đầu tạo ra những hy vọng mới cho toàn xã hội. Để Nghị quyết có sức sống, trước hết phải thấm nhuần nội dung và tinh thần dân chủ của Nghị quyết. Đây có thể coi là một trong những điểm quan trọng thể hiện rõ nét sự đổi mới tư duy của Đảng ta về giáo dục và đào tạo. Theo đó, dân chủ là một trong những mục tiêu, phương thức và động lực cơ bản của đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. 

Dân chủ trong giáo dục
Dân chủ trong giáo dục

1. Dân chủ trong giáo dục và đào tạo

 Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội phức tạp, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Nó có sức hấp dẫn to lớn và trở nên phức tạp hơn nhiều trong bối cảnh cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, quá trình chấn hưng toàn diện đất nước và dân chủ hóa đời sống xã hội đã làm cho dân chủ xã hội nói chung, dân chủ trong giáo dục và đào tạo nói riêng trở thành mục tiêu và động lực của đổi mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) chỉ rõ: “Dân chủ gắn với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…”(1). Tuy nhiên, hiện nay, nhận thức và thực hiện dân chủ ở trường học, dân chủ trong giáo dục và đào tạo chưa thực sự hiệu quả. Dân chủ trong giáo dục và đào tạo bao gồm một số mặt cơ bản sau: Dân chủ trong giáo dục là giáo dục của dân, do dân, vì dân. Sự nghiệp phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Đó là giáo dục đa dạng hóa để mọi người đều có năng lực và điều kiện học tập suốt đời. - Giáo dục và đào tạo có nội dung, mục tiêu trang bị giá trị, kinh nghiệm dân chủ, tri thức dân chủ, thái độ, kỹ năng, năng lực làm chủ (làm chủ tự nhiên, làm chủ tri thức, kỹ thuật, làm chủ kinh tế, làm chủ chính trị, văn hóa, xã hội...) cho người học để hướng đến xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội. - Giáo dục và đào tạo có hình thức, phương pháp tổ chức, hoạt động, vận hành hiệu quả theo quy định của pháp luật, trong đó mỗi chủ thể (cá nhân, tổ chức) tham gia quá trình giáo dục và đào tạo được tự chủ, tự do phát huy năng lực sáng tạo đa dạng của mình (người dạy, người học, nhà quản lý, nhà giáo, Nhà nước, nhà trường, gia đình, người sử dụng dụng lao động...). - Nền giáo dục hiện đại, tiên tiến với công nghệ, kỹ thuật đánh giá trung thực, khách quan; có cơ chế tuyển lựa bài bản, minh bạch, khuyến khích người tài đức; ngăn ngừa và dễ dàng thải loại những cá nhân, tổ chức yếu kém. Dân chủ xã hội nói chung, dân chủ trong giáo dục và đào tạo nói riêng có quan hệ gắn bó mật thiết. Tính chất, trình độ dân chủ của xã hội và dân chủ trong giáo dục, đào tạo của mỗi nước lệ thuộc vào tính chất và trạng thái của thể chế chính trị; tính chất và trình độ phát triển kinh tế; triết lý giáo dục, trình độ dân trí, năng lực, phẩm chất của nhà giáo dục, nhà quản lý giáo dục, truyền thống văn hóa, truyền thống giáo dục của mỗi quốc gia, dân tộc và cả những nhân tố của thời đại... Ở Việt Nam, khi công cuộc đổi mới đất nước bước sang bước ngoặt, cần đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn dân chủ trong giáo dục và dân chủ trong trường học. Không thể đổi mới nền giáo dục nước nhà thực chất và chiều sâu nếu không thực sự coi dân chủ là mục tiêu, phương pháp và động lực của đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo.

 2. Dân chủ là mục tiêu, phương thức và động lực của công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

 Nghị quyết Trung ương Đảng khóa VIII về đổi mới giáo dục và đào tạo có nhiều điểm mới. Trong đó lưu ý: Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; theo quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ phát triển chủ yếu dựa vào số lượng sang phát triển chú trọng chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu về số lượng. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ lĩnh hội kiến ​​thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học... Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo... Đây là sự trở lại và tiếp tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo trong điều kiện mới. Sinh thời, Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo phải hướng tới phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người; “Dạy và học phải đáp ứng nhu cầu của đất nước và của nhà nước”(2). Như vậy, phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội có thể coi là triết lý đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo lần này. Đổi mới giáo dục và đào tạo phải hướng tới phát triển toàn diện năng lực, phẩm chất của người học, trong đó đặc biệt là phẩm chất làm chủ, làm chủ đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh”, dân chủ, công bằng, văn minh". Chúng ta từng nhấn mạnh mục tiêu giáo dục toàn diện, nhưng trên thực tế mục tiêu này chưa được nhận thức và thực hiện đúng đắn. Dẫn đến cách giáo dục chủ yếu nặng kiến ​​thức, nặng lý thuyết, nhẹ thực hành, đào tạo không gắn với thực tiễn. nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu thị trường lao động; chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng nghề nghiệp... Trong thời kỳ đổi mới này, việc phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội phải được coi là mục tiêu cao nhất, là kim chỉ nam, triết lý chi phối toàn bộ quá trình đổi mới và phát triển giáo dục. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phải bảo đảm các mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy cao nhất tiềm năng, năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu đất nước, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc có hiệu quả”(3). Nhờ giáo dục, nhờ giáo dục, nhờ giáo dục mà những năng lực vốn có của người học được đánh thức và phát huy. Người học phải liên tục tiến bộ về mọi mặt, trong đó nhấn mạnh sự tiến bộ về kỹ năng thực hành, sự lưu loát và phẩm chất làm chủ. Theo độ tuổi và trình độ, người học dần vươn lên nắm vững các loại kiến ​​thức, thành thạo các loại kỹ năng; biết rõ quyền và nghĩa vụ của mình trước các mối quan hệ tự nhiên, xã hội trong mọi lĩnh vực của đời sống. Kiến thức dân chủ, giá trị dân chủ, thái độ và kỹ năng làm chủ phải được dạy, học và thực hành trong các nhà trường, cơ sở giáo dục và đào tạo. Thông qua giáo dục, thông qua giáo dục, thông qua giáo dục, người học tự tin và mạnh mẽ hơn, làm việc sáng tạo và hiệu quả hơn, có thêm kiến ​​thức và kỹ năng sống để sống tốt hơn. Đây là những kỹ năng và phẩm chất công dân cần có của một xã hội hiện đại, văn minh và dân chủ. Đó là kiến ​​thức, năng lực, kỹ năng của mỗi người, công dân để sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Phát triển năng lực học tập, năng lực làm chủ của mọi người, mọi công dân để họ làm chủ và làm chủ đã thực sự trở thành mục tiêu, nhiệm vụ vẻ vang của nền giáo dục Việt Nam trong điều kiện mới. Tuân thủ triết lý định hướng mục tiêu nói trên đòi hỏi toàn bộ quá trình đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo phải được dân chủ hóa thực sự. Nội dung, chương trình, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá; Quan hệ dạy - học, quan hệ tổ chức - quản lý cũng phải được hiện đại hóa, dân chủ hóa. Nhà giáo, nhà quản lý, nhà trường, Nhà nước, cá nhân, tổ chức, đơn vị sử dụng nhân lực, gia đình, cộng đồng, xã hội... được tự do, tự chủ phát huy năng lực sáng tạo theo yêu cầu của mình. đóng góp hiệu quả nhất vào sự phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Theo đó, mọi hạng người, nhất là đại bộ phận người lao động, tùy theo điều kiện, nhu cầu và khả năng của mình, đều có thể học tập và học tập suốt đời. Học làm người, làm việc, làm chủ, chung sống. Đây là những biểu hiện cơ bản nhất, khái quát nhất của dân chủ trong nhà trường và dân chủ trong giáo dục và đào tạo. Đó là tính nhân dân, tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục dân chủ hiện đại. Với tinh thần đó, dân chủ lần này được coi là mục tiêu của đổi mới giáo dục. Còn xa mục tiêu này, không đạt được mục tiêu này có nghĩa là đổi mới giáo dục còn nửa vời, chưa tới mức, chưa triệt để, chưa căn bản, chưa triệt để. Để có một nền giáo dục hiện đại, dân chủ, tiên tiến, làm tốt sứ mệnh phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa thì đường lối, phương pháp cơ bản là phát huy dân chủ và thực hành dân chủ trong mọi khâu, từng giai đoạn và xuyên suốt. quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo. Với tinh thần đó, dân chủ là phương thức và động lực to lớn để đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Một số luận điểm cơ bản về phương pháp, động lực và giải pháp đổi mới theo chiều sâu và chiều sâu nền giáo dục nước nhà: Thứ nhất, cần dân chủ hóa việc xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục và đào tạo. Chủ trương, chính sách phổ cập giáo dục quốc dân nhất thiết phải lấy ý kiến ​​của các tầng lớp nhân dân bằng các hình thức, phương pháp, quy trình, lộ trình phù hợp. Là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo không chỉ cần ưu tiên đầu tư tiền của, kinh phí mà quan trọng hơn, chính sách giáo dục và đào tạo phải đi đầu, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Nhiệm vụ đổi mới và phát triển giáo dục và đào tạo lúc này hết sức nặng nề. Nó liên quan đến lợi ích của nhân dân, niềm tin của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng sự phát triển của đất nước trong nhiều thập kỷ tới. Chính sách vĩ mô giáo dục và đào tạo phải bài bản, khoa học và khả thi. Vì vậy, các chính sách này phải là sự kết tinh ý chí và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Phải được toàn Đảng, toàn dân bàn bạc, ủng hộ. Các chính sách này phải bảo đảm nguyên tắc do toàn dân hoạch định, toàn dân thực hiện và được toàn dân tán thành. Đây là công việc hệ trọng của quốc gia, liên quan đến hàng triệu người nên phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, khoa học. Tất nhiên, không phải mọi vấn đề lớn nhỏ của giáo dục và đào tạo đều được công khai cho toàn dân tham khảo. Tuỳ theo nội dung chất vấn có thể có đối tượng trưng cầu ý dân khác nhau, hình thức, phương pháp, quy trình, lộ trình phù hợp. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, chính sách nào được xây dựng trên cơ sở sáng kiến ​​của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, bảo đảm lợi ích của nhân dân thì chính sách đó dễ trở nên sống động và có tác dụng đối với cách mạng. Hai là, phải thực hiện và thực hiện đầy đủ, đúng đắn xã hội hóa giáo dục và đào tạo; Phải tạo điều kiện thuận lợi để mọi người đều có cơ hội, năng lực học tập và học tập suốt đời. Cho đến nay, nhiều người, trong đó có nhiều cán bộ chủ chốt các cấp, cán bộ ngành giáo dục còn nhận thức về xã hội hóa giáo dục một cách phiến diện, phiến diện. Đó là, xã hội hóa giáo dục huy động các khoản đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, tăng học phí, đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo và phát triển trường tư thục. Hay lại xã hội hóa giáo dục là “nhà nước và nhân dân cùng làm”; Nhà nước, nhà trường khó khăn gì thì phải quy cho dân, cho xã hội... Những hạn chế, yếu kém của giáo dục nước ta lâu nay có nguyên nhân từ những định kiến, lệch lạc trong giáo dục. . Xã hội hóa giáo dục là huy động mọi lực lượng xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, tham gia vào quá trình giáo dục và đào tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự lãnh đạo của Nhà nước. Xây dựng cộng đồng trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp và cá nhân trong việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho các hoạt động giáo dục. Mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng nhân lực, vật lực và tài chính của xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo. Đồng thời, tạo điều kiện, tiền đề để mọi người đều có cơ hội và khả năng học tập, học suốt đời và thụ hưởng thành quả giáo dục với trình độ ngày càng cao. Như vậy, xã hội hóa giáo dục là mọi người, mọi lực lượng giám sát sự phát triển của giáo dục; người đi học, học thường xuyên, học suốt đời; Mọi người đều xứng đáng được hưởng thành quả của hoạt động giáo dục và đào tạo. Xã hội hóa phù hợp sẽ là nội dung cơ bản, hiệu quả và là phương thức để thực hiện đầy đủ, thực chất dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhà trường và trong giáo dục và đào tạo nói chung. Ba là, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, bảo đảm dân chủ, thống nhất, tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục, coi trọng chất lượng; dân chủ hóa công tác quản lý, quản lý tốt là điều kiện cơ bản để dạy tốt, học tốt. Theo đó, đáng chú ý là việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lĩnh vực của các bộ, ngành địa phương. Phân định rõ công tác quản lý nhà nước với quản lý cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, tăng cường trách nhiệm giải trình, tạo động lực, tính chủ động, sáng tạo trong các cơ sở giáo dục và đào tạo. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục và đào tạo; có cơ chế, quy định pháp lý đủ mạnh để phát huy vai trò của hội đồng trường. Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin; phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trong quản lý giáo dục và đào tạo. Đồng thời cấp trên đánh giá cấp dưới, có cơ chế để người học tham gia đánh giá hoạt động giảng dạy, đào tạo; giáo viên tham gia đánh giá cán bộ quản lý; quản lý cấp dưới tham gia đánh giá quản lý cấp trên, cơ sở giáo dục và đào tạo tham gia đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước... Đổi mới giáo dục và đào tạo không thể nói là căn bản, toàn diện nếu không tạo dựng và xây dựng cơ chế quản lý điều hành vừa bảo đảm tính thống nhất của hệ thống, vừa phát huy mạnh mẽ quyền tự chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở, nhà trường, phát huy thực chất vai trò chủ động, sáng tạo của giáo viên để thực hiện đúng triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục đào tạo. Cơ chế này phải là môi trường dân chủ, bình đẳng, đồng thời phát huy tính sáng tạo, tôn vinh nhân tố tích cực, ngăn ngừa tiêu cực, dễ dàng sa thải giáo viên, học sinh, cơ sở giáo dục và đào tạo, cán bộ quản lý yếu kém, tham nhũng. Thứ tư, quá trình đổi mới phải bao gồm việc bổ sung, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả hơn quy chế dân chủ trong nhà trường, cơ sở giáo dục và đào tạo. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong giáo dục về cơ bản là dân chủ hóa quá trình giáo dục và dân chủ hóa quản lý nhà trường nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phải thực sự coi người học là đối tượng hàng đầu của hoạt động giáo dục và đào tạo; thiết lập mối quan hệ hợp tác bình đẳng, dân chủ giữa thầy và trò, giữa giáo viên và cán bộ quản lý; xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng lực lượng trong và ngoài nhà trường tham gia vào quá trình giáo dục và đào tạo một cách phù hợp. Mọi quyết định, chỉ thị, kế hoạch của nhà trường phải hợp với lòng dân, đúng pháp luật; mọi cá nhân, tổ chức theo vị trí, chức năng của mình tích cực, chủ động phát huy khả năng sáng tạo để thực hiện nhiệm vụ một cách tốt nhất. Đây là con đường, con đường xây dựng nền giáo dục Việt Nam thấm nhuần tính đại chúng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Như vậy, trước hết trong nhà trường, trong cơ sở giáo dục và đào tạo, thầy phải là thầy, trò phải là thầy, việc giảng dạy và quản lý giáo dục và đào tạo phải dân chủ. Thứ năm, đổi mới, dân chủ hóa, minh bạch hóa, hiện đại hóa và khách quan hóa công tác kiểm tra, rà soát, đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo. Việc đổi mới này nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của người học nên kiểm tra, đánh giá chủ yếu phải đánh giá toàn diện năng lực, phẩm chất chứ không chỉ năng lực ghi nhớ kiến ​​thức của người học. Việc kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo phải từng bước được thực hiện theo các tiêu chí tiên tiến, đáng tin cậy và được xã hội và cộng đồng giáo dục toàn cầu thừa nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học tập với đánh giá cuối kỳ, năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội. Định kỳ kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đào tạo và chương trình đào tạo; công bố kết quả kiểm tra. Chú trọng công tác kiểm tra, đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập và cơ sở có yếu tố nước ngoài. Đổi mới cách tuyển dụng và sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng coi trọng năng lực, chất lượng và hiệu quả thực sự của công việc, không quá coi trọng bằng cấp, trước hết trong các cơ quan của hệ thống chính trị. . Thứ sáu, cần khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo đối với chất lượng giáo dục và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đổi mới và phát triển giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Vì vậy, cần khuyến khích, huy động và tạo mọi điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân đóng góp, xây dựng. Nhưng hơn ai hết, lực lượng cơ bản quyết định trực tiếp đến sự vận hành trong các nhà trường của hệ thống giáo dục chính là đội ngũ giáo viên các cấp, các bậc học trên mọi miền đất nước. Họ hiểu rõ ưu nhược điểm của giáo dục, mặt được và chưa được của cơ chế, chính sách giáo dục và đào tạo; điểm mạnh, điểm yếu của học sinh, sinh viên, những tồn tại, hạn chế của chương trình, nội dung và phương pháp kiểm tra, đánh giá... Các em hiểu rõ cái gì cần thay đổi, cái gì cần loại bỏ, cái gì kế thừa và phát triển. Không ai hiểu thực trạng giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hơn chính các thầy cô giáo. Đội ngũ nhà giáo là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược giáo dục và đào tạo. Đội ngũ giảng viên cũng là một trong những chủ thể tham gia hoạch định chiến lược, chính sách, dự án, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp và là chủ thể cơ bản để thực hiện các chiến lược, thiết bị, chính sách và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo… Vì vậy, để đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam cần có quy trình, cơ chế, phương pháp và cách lắng nghe, tiếp thu, tiếp thu ý kiến ​​của giáo viên. Việc này phải được thực hiện ngay từ đầu, xuyên suốt quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, từ nội dung toàn cầu đến từng yếu tố cấu thành, từ việc xác định mục tiêu, nguyên tắc… đến việc thiết kế nội dung, chương trình cho mỗi môn học. , ngành học, bậc học, bậc học, v.v.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo