Hình thức nhà nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Kết quả của việc thực hiện quyền thống trị chính trị phần lớn phụ thuộc vào cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị.
1. Hình thức chính trị là gì?
Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và các phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm chung được hình thành bởi ba yếu tố cụ thể: hình thức chính trị, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị. Đó là tổ chức, trật tự để tạo ra các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan này. Có hai hình thức chính phủ cơ bản: quân chủ và cộng hòa.
Chế độ quân chủ là hình thức mà quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hoặc một phần) vào tay nguyên thủ quốc gia theo nguyên tắc thừa kế.
Cộng hòa là một hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về một cơ quan dân cử trong một thời gian nhất định.
Cả hai hình thức có các biến thể của họ. Chế độ quân chủ được chia thành quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế. Trong các chế độ quân chủ chuyên chế, nguyên thủ quốc gia (vua, hoàng đế, v.v.) có quyền lực vô hạn; trong khi ở các nhà nước quân chủ, nguyên thủ quốc gia chỉ nắm giữ một phần quyền lực tối cao và có một cơ quan quyền lực khác, như nghị viện ở các nhà nước tư sản theo chế độ quân chủ. .
Có hai hình thức chính thể cộng hòa chính là cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc. Ở các nước dân chủ cộng hòa, quyền tham gia bầu cử để thành lập cơ quan đại diện (quyền lực) của nhà nước được trao cho các tầng lớp bình dân một cách hợp pháp (mặc dù trên thực tế, các giai cấp thống trị của các nhà nước bóc lột thường đặt ra nhiều quy định hạn chế hoặc vô hiệu hóa quyền này của người lao động). Ở các nước cộng hòa quý tộc, quyền này chỉ giới hạn ở tầng lớp quý tộc. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, hình thái chính trị cũng có những đặc điểm khác nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu hình thức chính trị của một nhà nước nhất định phải bám sát vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều là các nước cộng hòa dân chủ được đặc trưng bởi sự tham gia rộng rãi của người lao động trong việc thành lập các cơ quan đại diện của họ.
2. Cộng hòa dân chủ nhân dân là gì?
Cộng hòa dân chủ nhân dân là hình thức chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945).
Nhà nước theo thể chế cộng hòa dân chủ nhân dân có những đặc điểm sau đây:
1) Sử dụng kết hợp đấu tranh vũ trang bạo động với biện pháp hòa bình linh hoạt để giành và giữ chính quyền;
2) Chuyển từ cách mạng dân tộc - dân chủ lên cách mạng xã hội chủ nghĩa;
3) Mặt trận Đoàn kết toàn dân tộc ra đời có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết các bộ phận dân cư trong xã hội đấu tranh, giữ vững chính quyền và thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. ;
4) Có nhiều hội chợ được thành lập và hoạt động. Dưới sự lãnh đạo của đảng giai cấp công nhân, đại biểu của các chính đảng cũng tham gia chính quyền;
5) Thiết lập chế độ dân chủ phổ thông, quyền tư hữu của mọi công dân được Nhà nước bảo hộ. Giai cấp tư sản yêu nước và địa chủ kháng chiến được bảo đảm các quyền chính trị và dân sự;
6) Nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân được xây dựng trên cơ sở liên minh công nông và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Hình thức chính phủ cộng hòa là sự kết hợp giữa cộng hòa tổng thống và cộng hòa nghị viện. Ở một nước cộng hòa lưỡng tính, tổng thống do dân bầu ra, tổng thống chỉ là nguyên thủ quốc gia chứ không phải là người đứng đầu chính phủ, nhưng có thể chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng (như ở Pháp) hoặc có thể chủ trì các cuộc họp của chính phủ (Nga). ; Tổng thống có quyền bổ nhiệm Thủ tướng nhưng phải được Nghị viện phê chuẩn. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Tổng thống và Quốc hội. Nghị viện có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ, buộc chính phủ phải giải tán. Tổng thống có thể giải tán Hạ viện. Cộng hòa Pháp theo Hiến pháp 1958 và Liên bang Nga theo Hiến pháp 1993 là những điển hình của nền cộng hòa lưỡng tính. Ngoài ra, một số quốc gia khác cũng đi theo mô hình này như Hàn Quốc, Singapore và Phần Lan, Bồ Đào Nha…
3. Mẫu cấu trúc báo cáo
Đó là việc cơ cấu nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa chính quyền trung ương và địa phương.
Chủ yếu có hai hình thức cấu trúc nhà nước, nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống quyền lực và cơ quan quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương, có đơn vị hành chính gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận) và hạt, đơn vị hành chính (khu phố) . Ví dụ: Việt Nam, Lào, Ba Lan, Pháp... là các quốc gia đơn nhất. Nhà nước liên bang là một nhà nước bao gồm hai hoặc nhiều quốc gia thành viên. Nhà nước liên bang có hai hệ thống quyền lực và hành chính; một hệ thống chung cho toàn liên đoàn và trong mỗi quốc gia thành viên; có chủ quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang, đồng thời mỗi thành viên có chủ quyền riêng. Ví dụ: Mỹ, Đức, Ấn Độ, Malaysia... là các quốc gia liên bang.
Cần phân biệt nhà nước liên bang với nhà nước liên bang. Liên minh là sự liên kết tạm thời giữa các quốc gia với nhau vì những mục đích nhất định. Một khi các mục tiêu này đã đạt được, liên bang có thể bị giải thể hoặc trở thành một quốc gia liên bang.
Ví dụ: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ 1776 đến 1787 là một quốc gia liên bang, sau đó trở thành một quốc gia liên bang.
4. Chế độ chính trị
Chính trị là tổng thể những phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong lịch sử, từ khi có nhà nước cho đến ngày nay, các giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước. Các phương thức, thủ đoạn này chủ yếu xuất phát từ bản chất của nhà nước, đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố của từng giai đoạn ở mỗi quốc gia cụ thể. Vì vậy, có nhiều phương pháp thủ đoạn khác nhau, nhưng nhìn chung được phân thành hai loại chính: phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ.
Phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, biểu hiện dưới những hình thức khác nhau như dân chủ thật và phương pháp dân chủ rởm, dân chủ rộng rãi và dân chủ hạn chế; dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp… Chúng ta phải phân biệt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bởi việc sử dụng các hình thức dân chủ phổ quát thực sự với nền dân chủ tư sản được đặc trưng bởi dân chủ hình thức và hạn chế.
Các phương pháp phản dân chủ thể hiện chế độ độc tài cũng có nhiều loại, nhất là khi các phương pháp này khi phát triển đến mức độ cao thì trở thành các phương pháp tàn bạo, quân phiệt, phát xít.
Hình thức chính trị, hình thức cấu trúc nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với chế độ chính trị. Ba yếu tố này tác động lẫn nhau để hình thành khái niệm hình thức nhà nước, phản ánh bản chất và nội dung của nhà nước. Nhưng trong một số trường hợp, ba yếu tố này có thể không tương thích với nhau. Ví dụ, một chế độ chính trị phát xít và quân phiệt có thể mang hình thức cộng hòa dân chủ. Điều này cũng phổ biến ở các quốc gia bóc lột.
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, ba yếu tố này phải tương thích với nhau, phản ánh đúng bản chất và nội dung của nhà nước xã hội chủ nghĩa. 5. Nhà nước chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hệ thống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín, nhân dân bỏ phiếu bầu ra các cơ quan đại diện của mình (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp).
Quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc về Quốc hội. Quốc hội được bầu theo nhiệm kỳ 5 năm, có quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Hệ thống chính trị của nhà nước dân chủ cộng hòa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều đặc điểm riêng khác với nhà nước cộng hòa dân chủ tư sản. Tổ chức quyền lực nhà nước trong chế độ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị có vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Điều 4 Hiến pháp 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, vừa là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách và phương hướng phát triển nhà nước trên mọi lĩnh vực, trong mọi thời kỳ.
Đảng đề ra chủ trương, nguyên tắc xây dựng Nhà nước Việt Nam chân chính của dân, do dân, vì dân. Nhà nước có bộ máy nhà nước chính quy, điều lệ lao động khoa học, có đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hết lòng vì lợi ích của nhân dân.
Đảng phát hiện, bồi dưỡng những đảng viên, đảng viên ưu tú, giới thiệu vào các vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước thông qua bầu cử, bổ nhiệm.
Đảng giáo dục đảng viên giữ vững vai trò tiên phong, gương mẫu, tập hợp quần chúng, động viên quần chúng tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện đường lối của Đảng, chấp hành pháp luật của nhà nước.
Đảng kiểm tra tổ chức Đảng trong việc tổ chức, thực hiện các chủ trương, chỉ thị, chính sách, nghị quyết của Đảng. Đảng kiểm tra các cơ quan nhà nước để phát hiện những sai sót, hạn chế, từ đó có biện pháp sửa chữa, tổng kết rút kinh nghiệm để không ngừng hoàn thiện đường lối của mình.
Nội dung bài viết:
Bình luận