Những ngày này, trên khắp cả nước, người ta đang bàn tán rất nhiều về việc có nên đổi tên nước theo tên cũ trước 1976 là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay giữ nguyên tên hiện nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa. của Việt Nam. nghĩa tiếng Việt. Tuy nhiên, ít ai hiểu được bản chất thực sự của những cái tên này có ý nghĩa gì?
1.Các loại chế độ và hệ thống chính quyền
Các nhà nước trên thế giới đều áp dụng một số hình thức hệ thống chính trị để tổ chức hệ thống quyền lực của mình nhằm điều hành xã hội. Theo giải thích của báo Pháp Luật TP.HCM, từ “chính thể” là khái niệm để chỉ hình thức nhà nước, còn “chế độ chính trị” thể hiện bản chất và phương thức sử dụng quyền lực của Nhà nước.
Theo Wikipedia tiếng Việt, về cơ bản có hai hình thức chính phủ: quân chủ và cộng hòa. Trong đó, quân chủ được chia thành hai loại: quân chủ tuyệt đối và quân chủ lập hiến. Với chế độ quân chủ chuyên chế, mọi quyền lực tối cao của nhà nước tập trung vào tay nhà vua, trong khi chế độ quân chủ lập hiến chia quyền lực tối cao của nhà nước thành hai bên, một bên là nhà vua và bên kia là một nhóm người do nhân dân bầu ra. như Quốc hội. hay Nghị viện, Vua trong chế độ này chỉ là biểu tượng của quốc gia. Hình thức quân chủ lập hiến có nghĩa là "làm" ra "hiến pháp"; Khi có hiến pháp thì mọi người, kể cả nhà vua, khi muốn làm gì thì làm theo những gì hiến pháp quy định.
Ngày nay, hầu hết các nước quân chủ đều có Hiến pháp quy định rõ các nguyên tắc để xác định quyền và nghĩa vụ của nhà vua, hoàng gia, chính phủ, các tổ chức đại biểu của nhân dân trong nước, quyền và nghĩa vụ của công dân, nên gọi là "Hợp hiến". quân chủ”; chứ không phải như trước đây, nhà vua nắm trong tay mọi quyền lực nhà nước (gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp) nên gọi là “quân chủ tuyệt đối” (hay quân chủ tuyệt đối).
chế độ quân chủ lập hiến
Anh là một ví dụ về chế độ quân chủ lập hiến
Trong một nước cộng hòa, quyền lực của nhà nước không phụ thuộc vào một người, mà phụ thuộc vào một nhóm người hoặc một tập thể. Ở các nước “cộng hòa”, nguyên thủ quốc gia, các cơ quan quyền lực nhà nước tối cao đều do nhân dân bầu ra chứ không phải thừa kế, nguyên thủ quốc gia không phải là vua. /Nhà vua.
Có hai loại chính thể cộng hòa là cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ.
Cộng hòa quý tộc là một hình thức nhà nước sớm hơn khi, trong quá trình chuyển đổi từ nhà nước quân chủ sang cộng hòa quý tộc (ví dụ: nhà nước La Mã), quyền lực của nhà vua được chuyển giao cho tầng lớp quý tộc. Gọi là “cộng hoà” vì những người nắm quyền lực cao nhất của chế độ này được bầu ra hàng năm trong giới quý tộc, ngoài hai quan chấp chính được bầu ra hàng năm còn có Thượng thư, các quan lại, quan toà… để điều hành đất nước và cai quản nhân dân. Hiện nay chưa có nước nào theo thể chế này mà kết hợp với thể chế dân chủ cộng hòa - một hình thức mà nhiều người cùng tham gia quản lý đất nước, bộ máy nhà nước có sự phân chia quyền lực giữa 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính phủ của một nước cộng hòa dân chủ tạo cơ hội cho người dân tham gia vào việc ra quyết định chính trị hoặc tham gia vào việc thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử. Có hai hình thức dân chủ là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp (dân chủ đại diện). Tuy nhiên, nền dân chủ phát triển đến đâu còn tùy thuộc vào từng quốc gia và hoàn cảnh quốc gia. Hiện nay, không có mô hình chung của loại hình chính phủ dân chủ cộng hòa.
2.Các kiểu nhà nước cộng hòa trên thế giới
Có nhiều hình thức nhà nước cộng hòa khác nhau do cách thức lựa chọn nguyên thủ quốc gia cũng như quyền lực của các nguyên thủ quốc gia. - Dân chủ cộng hòa: là hình thức chính thể cộng hòa trong đó quyền lực của chính quyền là quyền lực chung, “của dân, do dân, vì dân”, không có quyền lực cá nhân hay quyền lực của một nhóm người lãnh đạo. được bầu hoặc bổ nhiệm, trong đó mọi công dân đủ điều kiện đều có tiếng nói bình đẳng trong các quyết định của địa phương và quốc gia có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
- Cộng hòa lập hiến: nguyên thủ quốc gia và các quan chức chính phủ khác được bầu làm đại diện của nhân dân và phải điều hành đất nước theo luật hiến pháp hiện hành giới hạn quyền lực của chính phủ đối với công dân. Trong một nền cộng hòa lập hiến, quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp là ba nhánh riêng biệt và ý chí của đa số người dân chỉ giới hạn trong việc bảo vệ các quyền cá nhân, nghĩa là không một nhóm người hay cá nhân nào có quyền tuyệt đối. Một hiến pháp tồn tại và giới hạn quyền lực của chính phủ, làm cho nhà nước hợp hiến.
Cộng hòa nghị viện: Cộng hòa nghị viện hay cộng hòa nghị viện là một hình thức cộng hòa trong đó người đứng đầu nhà nước được bầu bởi các thành viên của quốc hội, quốc gia này có một quốc hội mạnh và các thành viên chính của cơ quan. Người điều hành cũng được chọn từ trong quốc hội này. Tổng thống của các nước cộng hòa nghị viện nói chung không có nhiều quyền hành pháp vì nhiều quyền được trao cho người đứng đầu chính phủ (thường được gọi là thủ tướng). Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Cộng hòa Nam Phi và Botswana, người đứng đầu chính phủ và người đứng đầu nhà nước có thể là một vị trí. Ở các quốc gia khác, chẳng hạn như Phần Lan hoặc Ireland, tổng thống có quyền hành pháp để quản lý công việc hàng ngày của chính phủ, nhưng thông thường không thực hiện các quyền này. Kết quả là, một số nước cộng hòa nghị viện được coi là một hệ thống bán tổng thống hoạt động theo nghị viện.
- Cộng hòa tổng thống: nguyên thủ quốc gia đồng thời là người đứng đầu chính phủ, thể chế này được gọi là chế độ tổng thống. - Cộng hòa bán tổng thống (semi-presidential): nguyên thủ quốc gia không đồng thời là người đứng đầu chính phủ, người đứng đầu chính phủ sau này thường được gọi là thủ tướng.
Cộng hòa Liên bang: Một liên bang gồm các bang hoặc tỉnh với hình thức chính phủ cộng hòa, trong đó các thống đốc bang được bầu phổ thông và có toàn quyền hành pháp ở bang đó. Ví dụ bao gồm Argentina, Áo, Brazil, Đức, Ấn Độ, Nga, Mỹ và Thụy Sĩ.
- Cộng hòa Hồi giáo - Các quốc gia như Afghanistan, Pakistan, Iran là các nước cộng hòa theo luật Hồi giáo.
- Cộng hòa xã hội chủ nghĩa: hình thức cộng hòa của các nước cộng sản. Nhân dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội bầu ra Chính phủ nên nhân dân tham gia gián tiếp vào các công việc của Nhà nước thông qua các đại diện là đại biểu Quốc hội. Đảng và Quốc hội nắm mọi quyền lực trong nước. Việt Nam theo chế độ này.
3. Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
Cộng hòa thường gắn liền với dân chủ. Như GS-TS Nguyễn Đăng Dung - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội giải thích trên báo Dân trí, hình thức dân chủ trực tiếp được hiểu là nhân dân tự quyết định một việc gì đó liên quan trực tiếp đến quyền lực của nhà nước (thuộc quyền sở hữu của Nhà nước). mọi người). ), chẳng hạn như biểu quyết tách hoặc sáp nhập địa phương này vào địa phương khác; hoặc bỏ phiếu về hiến pháp của một quốc gia được coi là hình thức dân chủ trực tiếp cao nhất...
Bầu cử để bầu ra người thay mặt mình điều hành công việc của nhà nước cũng như bãi nhiệm họ khi họ không còn xứng đáng là một hình thức dân chủ đại diện (dân chủ gián tiếp), giống như bầu chủ tịch nước của dân chủ đại diện. Một số người nhầm lẫn điều này với dân chủ trực tiếp. Đó là nền dân chủ trực tiếp mà người dân của một quốc gia nhất định bỏ phiếu phê chuẩn hiến pháp của quốc gia họ.
Nội dung bài viết:
Bình luận