Tôn giáo xuất phát từ sự bất lực của con người trong cuộc sống, buộc họ phải tin vào một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó để thỏa mãn những giá trị tinh thần. Tôn giáo cũng có ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội.

1. Khái niệm về tôn giáo?
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được các học giả tôn giáo tranh luận nhiều. Trong lịch sử, đã có nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “tôn giáo là mối quan hệ giữa Thiên Chúa và con người”.
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào đấng siêu nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học cho rằng: “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong sự cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu bạn chưa bao giờ cô đơn thì bạn chưa bao giờ có tôn giáo. “. - Quan niệm mang tính xã hội về tôn giáo của C. Mác:
"Tôn giáo là tiếng thở dài của những chúng sinh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của một trật tự không có tinh thần."
- Quan niệm về nguồn gốc tôn giáo của Ăng-ghen:
"Tôn giáo là sự phản ánh thần thoại trong tâm trí con người về những thế lực bên ngoài đang chi phối họ trong cuộc sống hàng ngày..."
Thế thì tôn giáo là gì?
Để có một quan niệm đầy đủ về tôn giáo cần chú ý đến:
- Khi nói đến tôn giáo, dù với ý nghĩa hay biểu hiện nào, bao giờ người ta cũng phải nói đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới người sống và thế giới bên kia. , thế giới của các đối tượng hữu hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ là sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi, đánh mất bản thân phải nương nhờ vào thần linh mà còn hướng con người hướng tới niềm hy vọng tuyệt đối, một sự thánh thiện”. cuộc sống nguyên thủy vàng son, một cuộc sống mà quá khứ, hiện tại và tương lai cùng tồn tại, anh gieo vào con người những hy vọng, dù là ảo tưởng để có được sự an tâm, tự tin sống và sống trong một thế giới còn nhiều bất công, khó khăn. Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, thần thánh, được tiếp nhận một cách trực giác và tương tác một cách huyễn hoặc, nhằm giải thích các vấn đề của thế giới cũng như của thế giới này cũng như thế giới bên kia. Tín ngưỡng này được thể hiện dưới nhiều hình thức, tùy thuộc vào từng giai đoạn lịch sử, hoàn cảnh địa lý, văn hóa khác nhau, tùy thuộc vào nội dung của từng tôn giáo, được vận hành bởi những nghi lễ, hành vi tôn giáo, tôn giáo khác nhau của các cộng đồng tôn giáo và xã hội khác nhau.
2. Nguồn gốc tôn giáo
Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo
- Tôn giáo xuất hiện đã lâu và người ta mặc nhiên chấp nhận. Việc đặt câu hỏi: “Tôn giáo là gì” chỉ mới được giới khoa học đặt ra gần đây, khi vấn đề tôn giáo trở nên bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này được đặt ra, tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học riêng biệt. Đối tượng nghiên cứu của tôn giáo đến từ châu Âu khá sớm, nhưng khoa học về tôn giáo chỉ ra đời vào cuối thế kỷ 19.
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong các tác phẩm của mình, C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra tôn giáo, nhưng tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Tôn giáo là một thực thể khách quan của nhân loại, nhưng lại là một thực thể có nhiều quan niệm phức tạp cả về nội dung và hình thức thể hiện. Về nội dung, nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác động đến cá nhân và cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra những giá trị tuyệt đối là mục đích để con người hướng tới một cuộc sống tốt đẹp và nội dung này được thể hiện thông qua các lễ nghi, điều kiêng kỵ...
- Khó có thể đưa ra một định nghĩa về tôn giáo có thể bao quát hết các quan niệm của con người về tôn giáo, nhưng rõ ràng nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ giữa hai thế giới thực và hư, cái thiêng và cái thực. Linh thiêng. tục tĩu và không có sự ngăn cách giữa chúng.
Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh”, Ph.Ăng-ghen đã có một nhận xét soi sáng cho chúng ta về bản chất của tôn giáo như sau: “Tất cả các tôn giáo chỉ là sự phản ánh hão huyền - trong đầu óc con người - của những thế lực bên ngoài nằm ngoài sự thống trị của họ trong cuộc sống. , chỉ là sự phản ánh trong đó các lực trần thế đã chiếm lấy hình thức của các lực siêu thế.
3. Vai trò của nơi thờ tự trong tôn giáo
Cả người theo đạo và người vô thần đều nói về tôn giáo. Người đàn ông này nói về những gì anh ta yêu thích. Người kia nói về những gì anh ta sợ hãi.
Hầu hết các dân tộc văn minh đều có nhà ở. Từ đó, người ta nảy ra ý tưởng xây dựng một ngôi nhà cho Chúa để có nơi thờ phượng, và họ đi tìm và rước Chúa về với lòng sợ hãi, hy vọng và chờ đợi.
Thật vậy, không có gì an ủi hơn cho con người là cảm nhận được sự hiện diện thiêng liêng để nói với họ về nỗi đau khổ và sự yếu đuối của họ. Nhưng ý tưởng chỉ nảy sinh trong số những người cày ruộng; Nhưng trong số các dân tộc du mục, chúng tôi không thấy ai xây dựng một ngôi đền.
Thành Cát Tư Hãn tỏ ra rất coi thường các nhà thờ Hồi giáo, ngoại trừ chuyến hành hương đến Mecca (một thành phố ở đồng bằng Tihamah ở Ả Rập Saudi và là thủ phủ của vùng Makkah). Anh ấy hiểu rằng mọi người không thể tôn thờ. Vì những người Mông Cổ du mục không có nhà ở nên họ không biết về ngôi đền.
Thượng đế là người bảo vệ đau khổ, và không ai đau khổ hơn người tù. người ta thường nghĩ rằng đền thánh là nhà của họ. Suy nghĩ này là tự nhiên của người Hy Lạp, nơi những tên tội phạm bị đuổi ra khỏi thành phố, chỉ còn một cách duy nhất là đến đền thờ để trú ẩn và bảo vệ.
Tình trạng này ban đầu chỉ xảy ra với những kẻ sát nhân, sau này ngay cả những tên tội phạm giết người cũng bị đuổi vào đền thờ: những người đã chiến đấu với con người cũng có thể chiến đấu với quỷ dữ hơn. .
Luật pháp của Môi-se (với tư cách là nhà lãnh đạo tôn giáo, người ghi chép, nhà tiên tri, chỉ huy quân sự và nhà sử học) rất khôn ngoan: ông cho rằng những kẻ sát nhân vô tội, nhưng phải giữ chúng khuất mắt người thân của kẻ giết người; và anh ta đã cho những kẻ giết người một nơi riêng của chúng, nhưng tên tội phạm giết người không cho chúng ở. Họ chỉ có thể mang theo một chiếc lều bạt và dựng lều trong đó bất cứ nơi nào họ đến. Tất nhiên họ cần một ngôi đền, nhưng bọn tội phạm từ khắp nơi trên thế giới đến đây để phá rối giáo phái. Nếu những kẻ giết người bị đuổi ra khỏi một đất nước như Hy Lạp, người ta sẽ phải lo sợ rằng chúng đang thờ thần lạ. Cách suy nghĩ này đã dẫn đến việc thành lập các thành phố tị nạn mà cư dân của họ sẽ ở lại cho đến khi vị hồng y trị vì thành phố cư trú qua đời.
Khi một tôn giáo đã có nhiều linh mục, lẽ tự nhiên là có một giáo sĩ đứng đầu. Do đó việc thành lập Tòa Thánh. Ở các quốc gia quân chủ, Tòa thánh thường nằm xa thủ đô vì người ta không muốn kết hợp quyền lực của nhà nước và quyền lực của tôn giáo trong người đứng đầu nhà vua. Trong một quốc gia chuyên quyền, mọi quyền lực đều nằm trong tay nhà vua, nhưng trong trường hợp này, nhà vua phải coi tôn giáo là luật của mình, là hiệu quả của ý chí cá nhân của nhà vua. Để tránh những mặt hạn chế trên, cần phải có những công trình như đền thờ tôn giáo, kinh sách quy định nội dung tôn giáo. Vua của Ba Tư là người cai trị Hồi giáo, nhưng Kinh Qur'an cai trị tôn giáo này. Hoàng đế của Trung Quốc là Đấng tối cao tối cao, nhưng trong tay ai cũng có sách (Tứ thư và Ngũ kinh), và Hoàng đế cũng phải hành xử theo sách. Ngay cả khi nhà vua muốn bãi bỏ kinh sách, ông không thể. Những bài viết này đánh bại kẻ độc tài.
4. Bản chất khoan dung, nhân văn trong tôn giáo
Với tư cách là các chính trị gia, không phải nhà thần học, mà thậm chí là nhà thần học, chúng ta phải phân biệt giữa khoan dung tôn giáo và chấp thuận tôn giáo.
Khi luật pháp của một quốc gia phải chấp nhận nhiều tôn giáo, thì luật pháp đó cũng phải buộc các tôn giáo phải khoan dung lẫn nhau. Mọi tôn giáo bị bức hại đều trở thành kẻ áp bức tôn giáo khác. Đó là một nguyên tắc. Bởi vì một khi thoát khỏi áp bức, anh ta sẽ đàn áp giáo phái đã đàn áp anh ta như một nhà độc tài, không phải như một tôn giáo.
Do đó, pháp luật cần yêu cầu các tôn giáo không những không sách nhiễu nhà nước mà còn không sách nhiễu lẫn nhau. Một công dân tuân thủ pháp luật không chỉ không quấy rối nhà nước mà còn không quấy rối các công dân khác. Chỉ những tôn giáo ngoan cố mới có thể truyền bá một cách khéo léo sang các khu vực khác. Một tôn giáo bao dung không nghĩ đến việc lan rộng.
Một nước đã có tôn giáo thì không được cấm thành lập tôn giáo khác. Đó là một luật dân sự rất tốt.
Vì vậy, nguyên tắc cơ bản của luật chính trị trong các vấn đề tôn giáo là như sau: khi một quốc gia có thể tự mình quyết định chấp nhận hay không chấp nhận tôn giáo, thì quốc gia đó không được chấp nhận; nhưng một khi tôn giáo được thành lập, nó phải khoan dung.
5. Pháp luật và hình phạt trong tôn giáo
Nên tránh những hình phạt chống lại tôn giáo. Hình phạt thật đáng sợ. Nỗi sợ này xóa nỗi sợ này. Giữa hai nỗi sợ này, lòng cư sĩ trở nên hung dữ. Tôn giáo có những đe dọa và hứa hẹn rất lớn, đến mức một khi quan tòa bắt chúng ta bỏ đạo, coi như chúng ta mất tất cả, và khi quan tòa để chúng ta tự do tin đạo, chúng ta được nhiều mà không mất gì.
Để lôi người ta ra khỏi một tôn giáo, cách chắc chắn nhất là đánh vào tôn giáo đó bằng ân sủng, bằng cuộc sống tiện nghi, bằng hy vọng làm giàu. Đừng cảnh báo mọi người, làm cho họ quên đi. Không chọc giận mà làm người ta ớn lạnh; đó là lúc những ham muốn trần tục khuấy động tâm hồn và những ham muốn được truyền cảm hứng từ tôn giáo chìm vào im lặng.
Theo nguyên tắc chung, trong việc thay đổi tôn giáo, những lời cầu xin có sức mạnh hơn những hình phạt. Bản chất của tinh thần con người thể hiện rõ trong thứ tự các hình phạt được sử dụng, hãy nhớ lại sự náo động tôn giáo ở Nhật Bản: người dân vùng lên chống lại những đòn tra tấn khắc nghiệt hơn là những hình phạt khắc nghiệt. kiên trì, chỉ làm nản lòng, không đe dọa. Hình phạt cứng. Nó khó vượt qua hơn, vì nó có vẻ nhẹ hơn, dễ dàng hơn.
6. Sức mạnh của tôn giáo
Thế giới ngày nay đang vận động, thay đổi rất nhanh chóng về mọi mặt. Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, với tư cách là một thực thể xã hội cũng không nằm ngoài sự vận động chung và biến đổi đó. Trong quá trình vận động và phát triển, mỗi quốc gia đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tôn giáo để phù hợp với xu thế chung của phong trào.
Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là hệ thống pháp luật thận trọng khuyến khích sự đoàn kết, khoan dung giữa các tôn giáo, có chính sách phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo (không chỉ là giá trị văn hóa, đạo đức) và vai trò của tôn giáo như một nguồn lực để phát triển xã hội, hoặc thừa nhận các tôn giáo (thực sự) là một nguồn sức mạnh mềm quốc gia.
Thực tiễn đời sống tôn giáo ở nước ta cũng như trên thế giới và những kết quả nghiên cứu về vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội cho thấy, tôn giáo không chỉ đóng vai trò xây dựng xã hội thông qua các giá trị văn hóa, đạo đức mà tôn giáo còn mang lại những giá trị khác. những giá trị tốt đẹp đến ổn định xã hội, đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững. Tôn giáo cũng là một kênh quan trọng để thúc đẩy mở rộng quan hệ ngoại giao giữa các dân tộc; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như: bảo vệ môi trường, chủ quyền quốc gia, chiến tranh, bá quyền, bạo lực, đói nghèo... Tôn giáo cũng là một kênh quan trọng để chúng ta tăng cường đoàn kết, gắn kết đồng bào đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài lại với nhau. Đạo của người Việt cũng là một kênh quan trọng để giới thiệu, quảng bá hình ảnh, nền văn hóa tốt đẹp của Việt Nam ra nước ngoài.
Các truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới, khi chúng bắt nguồn từ hàng ngàn năm trước, không nhất thiết phải đưa ra một giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội hay bảo vệ môi trường. Nhưng một cách tự nhiên, những truyền thống tôn giáo này chỉ ra những cách tạo ra cộng đồng và xã hội với những tiêu chí khá giống nhau. Phật giáo được cho là thúc đẩy bình đẳng xã hội và sự thúc đẩy này có thể phản ánh ý tưởng rằng đảm bảo bình đẳng và xóa bỏ ranh giới phân biệt giai cấp xã hội là một trong những nguyên tắc nhằm xây dựng một xã hội ổn định và hài hòa.
Thiên chúa giáo bênh vực người nghèo, chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên đạo đức, lòng khiêm nhường, đức hy sinh vì người và sự nguy hiểm của lòng tham của cải vật chất, v.v. Hồi giáo cũng có tiêu chí hình thành cá nhân và xây dựng cộng đồng như vậy. Nói chung, trọng tâm là mối quan hệ hài hòa giữa các cá nhân hoặc nhóm, tính chính trực, lòng khoan dung, sự hy sinh và quan tâm đến người nghèo và người đau khổ. Những tiêu chí rất tốt này, dù không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được, nhưng rõ ràng có thể được coi là nền tảng, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của xã hội. Trải rộng khắp thế giới, những truyền thống tôn giáo này thích ứng với những môi trường cụ thể, tạo ra và hỗ trợ sự phát triển của nền văn minh nhân loại và văn hóa của các khu vực hoặc quốc gia.
Nhưng các tôn giáo đều có mục đích riêng, không nhất thiết phải phù hợp với yêu cầu phát triển cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực. Vì vậy, vai trò của tôn giáo đối với sự phát triển đã thể hiện cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng tôi bắt đầu với vai trò tích cực của tôn giáo, như được thảo luận dưới đây.
Nhiều nghiên cứu sau đó đã khám phá lại một cách thận trọng vai trò và tầm quan trọng của tôn giáo đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Nói cách khác, nó trả lời câu hỏi: tôn giáo có thể tham gia vào sự phát triển xã hội bằng cách nào? Một trong những nghiên cứu đáng chú ý là của Stephen Ellis và Gerrie Ter Haar xuất bản năm 2005. Trong bài viết này, lấy châu Phi làm khu vực nghiên cứu điển hình về các nước đang phát triển, hai tác giả đã nêu bật sáu lĩnh vực mà tôn giáo có thể đóng vai trò tích cực cho sự phát triển. , đặc biệt:
Ngăn ngừa xung đột và kiến tạo hòa bình (nhiều cuộc xung đột ở Châu Phi là xung đột vũ trang. Các can thiệp quốc tế để ngăn chặn và giải quyết xung đột coi tôn giáo là một yếu tố);
Quản trị xã hội (trong khi năng lực quản lý xã hội và trợ giúp xã hội của chính quyền còn yếu thì một số tổ chức tôn giáo đã chứng minh được khả năng quản lý và phân phối trợ giúp xã hội tốt)
Tạo ra của cải và năng lực sản xuất (tôn giáo đưa ra ý tưởng để trở nên thịnh vượng và cách quản lý tài nguyên đất đai);
Y tế và giáo dục (Ở Châu Phi, bệnh tật và chữa bệnh được coi là một tổng thể. Chữa bệnh có nghĩa là điều trị cả cơ thể tâm lý và cơ thể người chết. Tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc chữa bệnh ở đây.)
Từ kinh nghiệm quốc tế này, chúng ta thấy rằng tôn giáo hiện diện trong hầu hết các hoạt động quan trọng nhất của bất kỳ xã hội nào, đồng thời luôn đáp ứng các yêu cầu về bền vững, chính trị, kinh tế, an ninh, an toàn, bình đẳng nam nữ, chăm sóc sức khỏe và bảo đảm các năng lực phát triển của các thế hệ tương lai.
Nội dung bài viết:
Bình luận