
1. Cơ sở lý luận
MỘT. Khái niệm về hình thức chính quyền nhà nước
Hình thức chính trị là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan tối cao của nhà nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan nhà nước này.
Hình thức quân chủ là hình thức mà quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ (hoặc một phần) vào tay nguyên thủ quốc gia theo nguyên tắc thừa kế.
- Khái niệm thể chế nhà nước quân chủ quý tộc
Chính thể quân chủ quý tộc là thể chế mà quyền lực tối cao vẫn nằm trong tay một người đứng đầu (vua, hoàng đế,…), nhưng trong bộ máy nhà nước, tầng lớp quý tộc nắm giữ những trọng trách chính. Hệ thống Quan thoại chủ yếu bao gồm các thành viên của gia đình hoàng gia.
2. Những biểu hiện của mô hình quân chủ quý tộc thời Lý - Trần
MỘT. Nhà nước quân chủ quý tộc là nhà nước chỉ có một vua nhưng quyền lực không tập trung vào tay vua
Cũng như các vua của các triều đại khác, các hoàng đế Lý-Trần chiếm địa vị độc tôn trong xã hội, nắm giữ mọi vương quyền, thần quyền nhưng việc thực thi quyền lực này chưa chuyên quyền. Trước khi đưa ra một quyết định quan trọng, nhà vua thường hỏi ý kiến các quan đại thần của mình. Đáng chú ý là chức danh Tể tướng thời kì này thường được giao cho các quan đại thần như Thái Phó Tô Hiến Thành, Thái sư Trần Thủ Độ, tuy được gọi bằng những tên gọi khác nhau như Tướng công, Phụ quốc, Bình chương quân quốc trọng sự,… nhưng thực chất các công thần này đều giữ chức vụ Tể tướng, là người có rất nhiều quyền hành, thực hiện nhiệm vụ giúp vua điều hành toàn bộ hoạt động của các quan chức trong triều, thực sự là “dưới một người trên vạn người”. Chính vì vậy có thể nói mặc dù bộ máy nhà nước thời kì này được tổ chức theo chính thể quân chủ chuyên chế nhưng quyền lực tập trung vào tay nhà vua chưa cao, giữa vua và các quan lại, các bộ, các cơ quan chuyên môn còn có một chức danh trung gian là Tể tướng và chức danh này chỉ giao cho một người. Sau này trong cải cách Lê Thánh Tông đã đặt ra chế độ “đồng tể tướng” (Tả, Hữu) nhằm phân quyền và cũng đồng thời hạn chế sự độc đoán, tiếm quyền của Tể tướng, bộ máy nhà nước thể hiện rõ tính chất quân chủ quan liêu chuyên chế. Sở dĩ có sự đặc biệt trên bởi các vua Lý – Trần trong buổi ban đầu thường là những người xuất thân từ tầng lớp bình dân, đồng thời họ cũng được chính triều đình của dòng họ vua trước suy tôn lên làm vua, từ đó nên họ vừa là Hoàng đế của nhà nước quân chủ vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc, vừa là người đại diện cao nhất của giai cấp thống trị và bóc lột nhưng vẫn còn dáng dấp “người cha của số đông các công xã”.
- Trong nhà nước quân chủ quý tộc, ngoài vua còn có một nhóm quý tộc là chỗ dựa, bệ đỡ của vương triều.
Trong chế độ phong kiến nói chung, hoàng gia luôn là chỗ dựa chính trị của vương triều. Các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê trước đây cũng vậy, nhưng các triều đại này cai trị trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ngoài hoàng tộc, việc thu nạp các lực lượng chính trị - quân sự khác cũng quan trọng không kém. . Do đó, giới quý tộc nhà nước vẫn chưa xuất hiện. Tuy nhiên, từ thời Lý, đặc biệt là thời Trần, chế độ quân chủ quý tộc càng phát triển, hoàng tộc càng trở thành chỗ dựa chính trị vững chắc của vương triều. Để củng cố vương quyền, nhất là trong thời kỳ đầu, các triều đại Lý - Trần đã thiết lập chế độ độc tài - dân chủ gia đình. Tầng lớp quý tộc nắm độc quyền lãnh đạo đất nước. Các vị trí quan trọng trong triều đình được nắm giữ bởi những người thân cận của nhà vua. Đến thời Lý, ông lấy hiệu là vua, phong tước, phong cho hoàng thân, người có công lớn như Thái Tổ thì phong ông là Vũ Uy Vương, chú là Vũ Đạo Vương, Lý Thường Kiệt là vua. được phong là Việt Quốc Công. Thứ hai, nhất Đào Cam Mộc được phong hầu. Thời Trần, “Hoàng tộc được phong vương hoặc tước quận vương (cũng có người là cổ thần có công như Trần Tá Chu được phong là Hưng Nhân Vương). Năm 1267, Vua Trần Thánh Tông đã phong “Ngọc phù hoàng” theo tiêu chuẩn ngũ y để xác định quan hệ họ hàng xa gần của nhà vua để phong tước, bổ nhiệm và phong đất.
Các triều đại Lý - Trần coi quý tộc là nền tảng của vương triều, thể hiện rõ trong cách tuyển chọn quan lại. Thời Trần, quan lại được tuyển chọn theo các phương thức: tử vụ (tập nóng), khoa cử (giới thiệu và bảo đảm) và tư cách (bằng thi cử). Việc sử dụng, bổ nhiệm quan lại thời Lý - Trần thể hiện rõ tính giai cấp sâu sắc, nhất là ở thời Trần. Năm 1228, Trần Thái Tông quy định “người nào có quan, con cháu nối dõi làm quan, người giàu có khỏe mạnh mà không làm quan thì đời đời làm lính”, cuối triều đại nhà Trần, l. bổ nhiệm là hai phương thức tuyển chọn quan lại chính của các triều đại.
Quan lại thời Lý, Trần chủ yếu là quý tộc. Đó là biểu hiện rõ nét của chế độ quân chủ quý tộc. Tuy nhiên, mỗi triều đại lại sử dụng những người khác nhau cho các phong tục. Nhà Lý trọng dụng cả quý tộc, thân tộc, họ hàng ngoại tộc: các chức tướng, phó vương được vua Lý phong cho những người có nhiệm vụ trực tiếp cai quản cả chính quyền. Lý Thái Tổ làm Trần Cảo tướng quân. Lý Thánh Tông phong cho Lý Thường Kiệt làm Thái phó, tướng quốc... Còn nhà Trần thì chỉ trọng dụng quý tộc, nho sĩ, không có tư lợi ngoại bang. Để ngăn chặn sự xa lánh và tăng cường sự ổn định của triều đại nhà Trần, hệ thống hôn nhân đồng giới đã được thực hiện. Nhiều vua và quan đại thần họ Trần lấy anh em họ hàng, có khi khá thân thiết (như Trần Thái Tông lấy em dâu, Trần Thủ Độ lấy em họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Trần Thánh Tông đã thường răn dạy: “Thế gian này là thế giới của tổ tiên, ai giữ được di sản của tổ tiên thì hãy cùng anh em trong nhà hưởng phú quý. . . Anh em ruột thịt rất thân thiết, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui…”.
Biểu hiện của chế độ quân chủ quý tộc thời Lý - Trần còn thể hiện ở sự coi trọng của các quan lại ở trung ương và địa phương. Tầng lớp quý tộc chiếm vị trí quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước, nắm giữ hầu hết các trọng trách trong triều đình và chính quyền địa phương, cai quản các vùng quan trọng và chỉ huy quân đội. Các hoàng tử lên ngôi vua và được cử đi cai trị những nơi quan trọng, triều đình được phong thái ấp, hiệp sĩ và lập dinh thự.
so với Trong nhà nước quân chủ quý tộc, vua lên ngôi.
Nhà Trần lấy nhà Lý bằng hôn nhân - từ vai trò cậu ruột nhà Lý đoạt ngôi. Vì vậy, để tránh ảnh hưởng ngoại bang, nhà Trần chủ trương chỉ lấy vợ một chồng. Nhà Trần khuyến khích hôn nhân khác chủng tộc để củng cố vương triều. Theo phong tục dân gian và quan niệm của Nho giáo, người trong cùng một nhà không được lấy nhau, nhưng nhà Trần lại khuyến khích việc kết hôn trong nội tộc để đảm bảo sự “đoàn kết” của gia tộc, để bảo vệ ngai vàng. ngai vàng rơi vào tay các gia đình khác. Có thể kể ra một số cuộc hôn nhân giữa các dân tộc này: Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em của Thuận Thiên; Trường hợp này cũng là con ông lấy vợ cho con ông. Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên, lúc đó Trần Liễu đang mang thai ba tháng. Trong trường hợp này, con trai và con gái ông kết hôn và em rể kết hôn với chị dâu. Năm 1258, Trần Thánh Tông cưới công chúa Thiên Cảm, là con của Trần Liễu, tức là con chú của ông lấy làm vợ.
3. Đánh giá về bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý - Trần
- Tích cực
Nhà nước quân chủ quý tộc đã ngăn cản nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam phát triển đến mức chuyên chế cùng cực. Khi nhà nước quân chủ quý tộc phát triển sẽ phát huy được trí tuệ và sức mạnh của hoàng gia và triều đình, kết cấu với hoàng gia thành một khối chặt chẽ làm bàn đạp chính trị cho nhà vua. Có sự hòa hợp giữa vua với hoàng gia, hoàng gia với nhân dân, làng nước đã tạo nên sức mạnh của nhà nước lúc bấy giờ, thể hiện sự thống nhất của vua tôi. Hơn nữa, điều này góp phần làm cho mô hình nhà nước phong kiến Việt Nam không hoàn toàn mô phỏng theo mô hình nhà nước Nho giáo của Trung Quốc.
Như vậy, có thể thấy, chính thể quân chủ quý tộc thời Lý - Trần là hình mẫu tôn trọng ý dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, là nét độc đáo thể hiện rõ tính dân tộc, tính thuộc. của người dân. tính cách của nhân dân nhà nước phong kiến Việt Nam.
- Giới hạn
Mô hình nhà nước quân chủ quý tộc tiềm ẩn nguy cơ phân quyền, khi các vương hầu - quý tộc có tiềm lực kinh tế - chính trị - quân sự, từ đó sẽ đoàn kết lại... thay thế bằng nhà nước quân chủ chuyên chế với bộ máy nhà nước đủ mạnh để trấn áp. . Phương thức từ chức chưa đáp ứng được nhu cầu đội ngũ quan lại tinh thông, kỹ năng quản trị chưa đáp ứng đủ kiến thức.
Nhà nước luôn phải dựa vào làng xã, nhiều tư sản làm giàu, chính quyền trung ương không kiểm soát được tư sản. Tầng lớp quý tộc, để bảo vệ lợi ích của mình, xung đột với giai cấp nông dân. Nhà nước không thể kiểm soát sự phát triển của các quý tộc địa phương. Về chính trị, việc xây dựng các lãnh địa, thái ấp của nhà Trần chỉ thấy cái lợi trước mắt mà chưa thấy được mối nguy tiềm tàng, là mầm mống hình thành các thế lực cát cứ địa phương dẫn đến mất ổn định về chính trị. Nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý - Trần đã có những biểu hiện rõ nét và đặc sắc như nhóm chúng tôi đã phân tích ở trên. Có mặt tích cực nhưng đồng thời cũng như hai mặt của một vấn đề cũng có mặt tiêu cực. Tuy nhiên, không thể phủ nhận mô hình này đã thể hiện bản sắc đặc trưng của nhà nước, và trên hết cho chúng ta thấy mối quan hệ mật thiết giữa vua với quan, giữa vua với dân. Có thể nói, mô hình quân chủ quý tộc đã góp phần làm nên một thời kỳ hoàng kim trong lịch sử phong kiến nước ta.
Nội dung bài viết:
Bình luận