1. Quy định chung về xúc tiến thương mại
Hoạt động này có thể do thương nhân tự cung cấp sản phẩm, dịch vụ nhằm quảng bá, quảng bá hàng hóa, dịch vụ của mình, cũng có thể do thương nhân chuyên kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại thực hiện. Ngoài ra, xúc tiến thương mại cũng có thể là một hoạt động của các cơ quan chính phủ hoặc các tổ chức phi chính phủ. Xúc tiến thương mại là hoạt động bổ trợ, được thực hiện không nhằm trực tiếp tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ mà nhằm giúp cho hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại được thuận lợi hơn. Xúc tiến thương mại là hành vi hướng tới tiêu dùng của xã hội. Luật Thương mại 1997 trước đây và Luật Thương mại 2005 hiện điều chỉnh các hoạt động xúc tiến thương mại, bao gồm khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày hàng hóa, hội chợ và triển lãm thương mại. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ, Bộ Công Thương là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công thương. . Phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công Thương liên quan đến kinh tế đối ngoại bao gồm các lĩnh vực: hội nhập kinh tế quốc tế; xuất khẩu, nhập khẩu, thương mại. Cạnh tranh là vấn đề tất yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp sử dụng mọi giải pháp để tìm kiếm và thúc đẩy các cơ hội bán hàng và cung cấp dịch vụ như: tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hàng hóa và dịch vụ, tổ chức bán hàng, giảm giá, quà tặng... Các hoạt động này được gọi là hoạt động thương mại xúc tiến và là một hoạt động tất yếu. quá trình mà các công ty thực hiện để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh. Quá trình này do thương nhân tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ xúc tiến thương mại do thương nhân khác cung cấp.
2. Khái niệm xúc tiến thương mại
Trong tiếng Anh, "promotion" được dịch là "khuyến mãi". Từ này có nghĩa là khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy, thúc đẩy hoặc thúc đẩy. Vì vậy, “xúc tiến kinh doanh” không chỉ là “xúc tiến kinh doanh”, mà còn có nghĩa là xúc tiến kinh doanh, xúc tiến kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh, “xúc tiến kinh doanh” là hoạt động tìm kiếm và xúc tiến các cơ hội kinh doanh thông qua việc doanh nghiệp sử dụng rộng rãi các kỹ thuật thuyết phục khác nhau để tiếp xúc với thị trường và đối tượng mục tiêu. Xúc tiến kinh doanh mang ý nghĩa thúc đẩy quá trình kinh doanh, hỗ trợ quá trình kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “khuyến mại” là một loại hành vi mà đối tượng tác động của nó là hoạt động “thương mại”. Với cách hiểu là “làm cho tiến bộ nhanh hơn”, thuật ngữ “khuyến mãi” được hiểu là hoạt động tìm kiếm, quảng bá một sự vật, hiện tượng nào đó và thuật ngữ này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. . Tùy theo đối tượng cần tìm kiếm và xúc tiến, trong đời sống kinh tế và pháp lý đã hình thành nhiều khái niệm được sử dụng rộng rãi như: xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến việc làm, xúc tiến ngân hàng. Hiểu theo nghĩa thông thường, thương mại là hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, theo đó, “xúc tiến thương mại” là hoạt động xúc tiến việc mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Trong bối cảnh hội nhập, các quan hệ kinh doanh được hình thành không chỉ ở quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà còn ở các quan hệ đầu tư, quan hệ thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Như vậy, xúc tiến thương mại bao gồm xúc tiến mua bán hàng hóa, xúc tiến cung ứng dịch vụ, xúc tiến đầu tư, v.v. Dưới góc độ kinh tế, “xúc tiến thương mại là tập hợp các biện pháp có tác động thúc đẩy thương mại phát triển”. Những hành vi này đều nhằm mục đích tìm kiếm và thúc đẩy các cơ hội kinh doanh thương mại và được thực hiện bởi nhiều chủ thể. Xúc tiến thương mại xét cho cùng là hoạt động của thương nhân, được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như khuyến mãi, quảng cáo, v.v. để tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp. Các hoạt động khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm... đều có tác dụng kích thích trực tiếp nhu cầu mua bán hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, hoạt động xúc tiến thương mại do thương nhân thực hiện chỉ nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội kinh doanh cho thương nhân. Ở cấp độ quốc gia, môi trường toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại buộc Chính phủ và các cơ quan xúc tiến thương mại phải nỗ lực hỗ trợ và thúc đẩy quan hệ thương mại, đặc biệt là với nước ngoài. Chính phủ thực hiện xúc tiến thương mại thông qua chính sách kinh tế, thông qua khung thể chế pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại và xúc tiến thương mại, đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài... tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường rộng hơn và sản phẩm của họ. Các tổ chức xúc tiến thương mại điều phối các hoạt động xúc tiến thương mại với các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp dịch vụ thông tin thương mại và các dịch vụ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp. phát triển của thương nhân mà còn bao gồm các hoạt động thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của chính phủ và các tổ chức xúc tiến thương mại. Dưới góc độ pháp lý và theo luật thương mại, xúc tiến thương mại là hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện nhằm xúc tiến, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và cơ hội đầu tư, đầu tư. Hoạt động xúc tiến thương mại theo quy định của pháp luật bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, giới thiệu, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.
3. Đặc điểm pháp lý của hoạt động xúc tiến thương mại
Hoạt động xúc tiến thương mại có những đặc điểm pháp lý chủ yếu sau:
Về bản chất: Xúc tiến kinh doanh là một loại hoạt động kinh doanh. Đặc điểm này khẳng định xúc tiến thương mại (cũng như các hoạt động thương mại khác) là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi và thường do thương nhân thực hiện. Tuy nhiên, khác biệt với các loại hoạt động thương mại khác, xúc tiến thương mại có ý nghĩa hỗ frợ cho hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ hay các hoạt động thương mại có mục đích sinh lời khác, tạo cơ hội khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động này thực hiện với hiệu quả cao nhất. Về chủ thể: Do xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, nên chủ thể thực hiện nó chủ yếu là thương nhân (người bán hàng, người cung ứng dịch vụ hoặc là người kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại), bởi trong kinh doanh, việc thương nhân thực hiện các hành động tự tạo cơ hội cho minh để cạnh tranh thành công là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, do đặc thù của các hình thức xúc tiến thương mại, có những tổ chức, cá nhân (không phải là thương nhân) cũng tham gia vào hoạt động này với những vai trò nhất định như người phát hành quảng cáo (ví dụ: cơ quan báo chí trong quan hệ phát hành sản phẩm quảng cáo) hay người cho thuê phương tiện quảng cáo... Họ trở thành chủ thể tham gia vào hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân và là “các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động thương mại”, chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại. Về mục đích: Xúc tiến thương mại nhằm mục đích trực tiếp là tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, cơ hội đầu tư và thông qua đó, nhằm đáp ứng mục đích lợi nhuận của thương nhân, về mặt lý luận, hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và hoạt động đầu tư mang bản chất khác nhau nhưng các biện pháp, cách thức để xúc tiến quá trình đó có rất nhiều nét tương đồng. Trong mọi trường hợp, các biện pháp thông tin, công khai, triển lãm, v.v. công khai, quảng bá thương nhân và hoạt động kinh doanh của họ có hiệu quả để phát triển thương mại, kể cả đầu tư tư nhân. Về phương thức xúc tiến thương mại: Do chủ thể áp dụng luật thương mại chủ yếu là thương nhân nên luật thương mại chỉ quy định các phương thức xúc tiến thương mại do thương nhân thực hiện, kể cả thương nhân tự mình thực hiện. : khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại, giới thiệu, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.
4. Quản lý xuất nhập khẩu, kinh doanh biên mậu, phát triển thị trường nước ngoài
Theo đó, Bộ Công Thương có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền, tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về xuất nhập khẩu hàng hóa, thương mại biên giới và phát triển thị trường nước ngoài. - Quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hóa, thương mại biên giới, hoạt động ủy thác, ủy thác xuất khẩu, ủy thác nhập khẩu, đại lý mua bán, gia công, xuất xứ hàng hóa Các mặt hàng. - Ban hành quy chế hoạt động dịch vụ thương mại và dịch vụ phân phối từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài; quản lý hoạt động của văn phòng, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. - Tổng hợp tình hình, lập kế hoạch xuất nhập khẩu hàng hóa và thương mại biên giới.
5. Quản lý hành chính về xúc tiến thương mại và cạnh tranh
Trong hoạt động xúc tiến thương mại, quản lý cạnh tranh,. áp dụng biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp Bộ Công Thương:
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, Tổng cục liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia hàng năm; hướng dẫn, rà soát nội dung, điều kiện quảng cáo thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, hội chợ, triển lãm thương mại, khuyến mại, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ ở trong nước và nước ngoài; quản lý ngân sách nhà nước cho hoạt động xúc tiến thương mại hàng năm. - Thực hiện đăng ký hoặc thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài và chịu trách nhiệm chính trong việc thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư của các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, Tổng cục liên quan hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, thanh tra hoạt động đầu tư, hướng dẫn xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình đào tạo, triển khai, thực hiện dự án đầu tư; đánh giá kết quả, hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài; kiểm tra, giám sát, đánh giá toàn bộ hoạt động đầu tư công. Làm đầu mối tổ chức các cuộc gặp gỡ của Thủ tướng Chính phủ với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Nội dung bài viết:
Bình luận