Hiện nay, vấn đề lạm phát gia tăng nhanh, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, dịch bệnh... đã ảnh hưởng lớn đến thu, chi NSNN. Sự không ổn định về thu chi ngân sách nhà nước đã dẫn đến tình trạng mất cân đối ngân sách nhà nước.

đặc điểm của quản lý ngân sách nhà nước
1. Ngân sách nhà nước là gì?
Trong hệ thống tài chính, NSNN là yếu tố chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để nhà nước thực hiện các nhiệm vụ của mình. Mặt khác, nó còn là công cụ quan trọng của nhà nước để thực hiện việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội. Xét về biểu hiện bên ngoài: Ngân sách nhà nước bao gồm các nguồn thu cụ thể, các khoản chi cụ thể và các nguồn thu đều được nộp vào quỹ tiền tệ - quỹ ngân sách nhà nước và các khoản đều được lấy ra ngoài quỹ tiền tệ. Các khoản thu nộp và phân bổ qua quỹ ngân sách nhà nước là những mối quan hệ được xác định trước và được định lượng và nhà nước sử dụng chúng để điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Vì vậy, về mặt kinh tế có nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN: Xét từ góc độ hình thức: Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu, chi tài chính hàng năm của Nhà nước do Chính phủ lập, trình Quốc hội quyết định và uỷ thác cho Chính phủ chấp hành. Xét từ góc độ các chủ thể: NSNN bao gồm các nguồn thu cụ thể, các khoản chi cụ thể, định lượng được. Tất cả thu nhập được gửi vào một quỹ tiền tệ và các chi phí được rút ra từ quỹ tiền tệ này. Việc thu chi quỹ này có mối quan hệ ràng buộc gọi là cân đối ngân sách, là một cân đối quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Xét về bản chất kinh tế chứa đựng trong NSNN: hoạt động thu, chi NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội tham gia vào quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng các nguồn quỹ NSNN. . Các hoạt động này được thực hiện trên nhiều lĩnh vực và có tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Các quan hệ thu, chi được cấp phát thông qua quỹ NSNN được xác định trước, định lượng được, nhà nước sử dụng chúng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Như vậy, về mặt kinh tế, có thể hiểu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng chung quỹ tiền tệ nhà nước khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn lực tài chính quốc gia nhằm thực hiện các nhiệm vụ của mình. chức năng theo luật định. Trong thực tiễn pháp luật, theo Khoản 14 Mục 4 Luật NSNN 2015, khái niệm NSNN được hiểu như sau: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một thời hạn nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính phủ”. Về điểm này, ngân sách nhà nước không khác nhiều so với ngân sách kinh tế, nó nói về các khoản thu và chi do các cơ quan nhà nước có liên quan quyết định và thực hiện trong vòng một năm. Tiếp cận ngân sách nhà nước từ khía cạnh kinh tế, chúng ta thấy đó là một kế hoạch tài chính khổng lồ của một quốc gia, trong đó các khoản thu chi và tiền tệ trong một năm được hoạch định. Dưới góc độ pháp lý, ngân sách nhà nước được hiểu là đạo luật đặc biệt của mỗi quốc gia do Quốc hội ban hành và chính phủ thực hiện trong một thời hạn xác định. Nhưng không giống như luật thông thường, ngân sách nhà nước được tạo ra bởi ngành lập pháp theo thủ tục riêng của mình và hiệu lực của đạo luật này được xác định rõ ràng trong một năm.
2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước.
Từ việc phân tích khái niệm ngân sách nhà nước, có thể thấy ngân sách nhà nước bao gồm các đặc điểm sau: Thứ nhất, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính lớn nhất phải được Quốc hội thông qua trước khi thực hiện. Đặc điểm này cho thấy việc ấn định NSNN không chỉ là vấn đề kỹ thuật, kỹ thuật mà còn là vấn đề pháp lý, kỹ thuật, do đó nó vừa phản ánh hành vi kinh tế (xác lập thu, chi sẽ thực hiện trong tương lai), vừa phản ánh các hành vi pháp lý của cơ quan có thẩm quyền (cơ quan hành pháp chịu trách nhiệm lập ngân sách và cơ quan lập pháp có quyền quyết định về dự toán này). Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là kế hoạch tài chính thuần túy mà còn là luật. Theo thông lệ, một khi dự thảo ngân sách nhà nước đã được cơ quan hành pháp chuẩn bị, nó sẽ được chuyển đến cơ quan lập pháp để xem xét và quyết định và được ban hành dưới dạng luật thi hành. Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính chung của cả nước, được giao cho Chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát của Quốc hội. Việc thiết lập cơ chế kiểm soát của Quốc hội đối với việc chấp hành ngân sách Nhà nước nhằm kiểm soát nguy cơ hành pháp lạm quyền trong việc chấp hành ngân sách Nhà nước. Thứ tư, NSNN được lập và chấp hành hoàn toàn vì mục tiêu theo đuổi lợi ích chung của toàn dân tộc, không phân biệt đối tượng được hưởng lợi ích đó, thuộc thành phần kinh tế nào, bình đẳng với bất kỳ tầng lớp nào trong xã hội. Thứ năm, NSNN luôn phản ánh mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp trong quá trình lập và chấp hành ngân sách. Theo đó, cơ quan lập pháp ban hành ngân sách nhà nước dựa trên cơ sở xây dựng chính phủ, sau đó chính phủ là người trực tiếp điều hành ngân sách này dưới sự kiểm soát của cơ quan lập pháp.
3. Tổng quan về cân đối ngân sách nhà nước
3.1 Khái niệm ngân sách cân bằng. Có nhiều quan điểm khác nhau về ngân sách cân bằng. Triết lí cổ điển về sự thăng bằng của ngân sách nhà nước bắt đầu từ một quan niệm kế toán, theo đó tất cả các khoản chi trong tài khoản ngân sách đề phải cân bằng với tất cả các khoản thu có trong tài khoản ngân sách (nói cách khác, tổng số thu phải cân bằng với tổng số chi trong năm ngân sách). Theo quan điểm này, sự thăng bằng ngân sách gần như được bảo đảm một cách hoàn hảo vì trên thực tế tổng số thu và tổng số chi của ngân sách nhà nước bao giờ cũng được cân bằng ngay từ khi lập kế hoạch dự toán. Tuy nhiên, sự so sánh giữa tổng thu và tổng chi ngân sách hàng năm để đánh giá về sự thăng bằng của ngân sách đó dường như không được khách quan và chính xác, bởi lẽ trong nhiều trường hợp những khoản thu mang tính chất hoa lợi không đủ để trang trải những khoản thu mang tính chất phí tổn, mặc dù xét tổng thể thì tổng số thu và tổng số chi vẫn cân bằng. Do đó, các nhà tài chính học đương đại đã đưa ra quan điểm mới về sự thăng bằng ngân sách nhà nước, họ cho rằng sự thăng bằng ngân sách không hoàn toàn đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng chi mà thực chất là sự cân bằng giữa tổng thu hoa lợi (trong đó chủ yếu là thuế) với tổng chi có tính chất phí tổn. Từ quan điểm này có thể hiểu là, nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi lớn hơn tổng các khoản chi có tính chất phí tổn thì khi đó ngân sách nhà nước sẽ có thặng dư (bội thu ngân sách); ngược lại, nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi nhỏ hơn các khoản thu có tính chất phí tổn thì ngân sách sẽ lâm vào tình trạng thâm hụt (bội chi ngân sách). Trên thực tế, quan điểm này đã được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới và cũng được ghi nhận trong pháp luật NSNN hiện hành ở Việt Nam. Cụ thể, Khoản 2 Điều 7 Luật NSNN quy định: “NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí lớn hơn tổng số chi thường xuyên và có tích lũy -chi tiêu trong ngày. • chi đầu tư phát triển càng cao; trường hợp bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, hướng tới cân đối thu, chi ngân sách; Trường hợp cụ thể, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. trường hợp kết dư ngân sách được sử dụng để trả nợ gốc và lãi các khoản vay của ngân sách nhà nước. Như vậy, cân đối ngân sách không chỉ là sự cân đối về mặt định lượng thể hiện bằng con số giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện ở các khía cạnh khác nhau. Tóm lại, có thể hiểu: cân đối NSNN là một yếu tố quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh việc điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước đã đặt ra trong từng lĩnh vực. khu vực và khu vực cụ thể.
3.2 Đặc điểm của ngân sách công cân bằng. Từ khái niệm cân đối ngân sách chính phủ, có thể suy ra một số đặc điểm sau: Cân đối ngân sách phản ánh mối quan hệ tác động qua lại giữa thu và chi NSNN trong năm ngân sách nhằm thực hiện mục tiêu đề ra. Nó vừa là công cụ để thực hiện các mục tiêu kinh tế chiến lược kinh tế xã hội của nhà nước, đồng thời các chỉ tiêu kinh tế xã hội này cũng quyết định việc hình thành thu chi ngân sách nhà nước. Cân đối ngân sách nhà nước là sự cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa thu và chi, cân đối trong phân bổ và điều chuyển nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời giám sát tình hình ngân sách nhà nước, trong đặc biệt là thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngoài ra, cần phân bổ nguồn thu hợp lý để đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân đối và rơi vào tình trạng bội chi thì cần có giải pháp kịp thời để ổn định ngân sách nhà nước. Tiếp theo, cân đối ngân sách chính phủ là định lượng và dự đoán được. Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, nhà quản lý cần xác định số liệu thu, chi của ngân sách nhà nước so với tình hình thu nội địa, chi tiết từng khoản thu, chi để có cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu theo hoạt động chi, từ đó phục vụ làm cơ sở cho việc phân bổ nguồn và điều chuyển giữa các cấp ngân sách. 3.3 Vai trò của cân đối ngân sách. Ngân sách công cân đối góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động kinh tế cũng như cáncân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp,… Ngân sách thăng bằng góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế-xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một điều kiện kinh tế-xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế-xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế-xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên, vì vậy, Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hỗ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế kém phát triển. Thứ tư, ngân sách nhà nước thăng bằng còn tạo ra nguồn dự trữ ngân sách nhà nước cho những nhiệm vụ chi phát sinh đột xuất trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Vì vậy, chúng ta sẽ không phải trì hoãn các kế hoạch để chờ nguồn thu cụ thể mà sử dụng ngay nguồn dự trữ sẵn có, góp phần hoàn thành nhanh các công trình và ổn định kinh tế - xã hội lâu dài. .
Nội dung bài viết:
Bình luận