Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư ở một quốc gia mua tài sản ở một quốc gia khác với ý định quản lý nó. Bài viết phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại FDI, cụ thể:

1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quyền kiểm soát (tham gia đưa ra các quyết định quan trọng liên quan đến chiến lược, chính sách phát triển của công ty) là tiêu chí cơ bản phân biệt FDI với đầu tư vào chứng khoán.
Hoạt động FDI ngày nay đã trở nên rất phổ biến. Bản chất của hoạt động này là giống nhau, nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau tùy theo các khía cạnh được xem xét. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), FDI là một khoản đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một công ty hoạt động trong lãnh thổ của một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nước sở tại. , mục tiêu của nhà đầu tư là giành được quyền thực sự quản lý doanh nghiệp. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), FDI được thực hiện với mục đích thiết lập quan hệ kinh tế lâu dài với một công ty, đặc biệt là các khoản đầu tư có khả năng tác động đến nền kinh tế. kinh doanh đó bằng cách: (i) thành lập hoặc mở rộng kinh doanh hoặc chi nhánh dưới sự quản lý hoàn toàn của nhà đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ hoạt động kinh doanh hiện có; (iii) Tham gia lĩnh vực kinh doanh mới; và (iv) cung cấp tín dụng dài hạn (>5 năm).
Theo UNCTAD, FDI là hoạt động đầu tư dài hạn nhằm thu lợi nhuận lâu dài và được kiểm soát bởi một chủ thể (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) của một quốc gia tại quốc gia của một công ty (chi nhánh nước ngoài) tại một quốc gia khác. Mục tiêu của các nhà đầu tư trực tiếp là có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý các công ty nằm trong nền kinh tế này. Định nghĩa này không cho chúng ta biết chính xác đầu tư là gì.
Theo WTO: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước sở tại) mua một tài sản ở một nước khác (nước sở tại) với quyền quản lý tài sản đó. “. Khái niệm này nhấn mạnh rằng FDI là một tài sản. Khía cạnh pháp lý là yếu tố phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong trường hợp này, nhà đầu tư thường được gọi là "công ty mẹ" và tài sản được gọi là "công ty con" hoặc "công ty con".
Quan niệm của các tổ chức trên về cơ bản là thống nhất với nhau về mối quan hệ, vai trò, quyền lợi của nhà đầu tư và thời gian dành cho hoạt động FDI. Định nghĩa quốc tế về FDI được chấp nhận rộng rãi nhất hiện nay, do IMF và UNCTAD đưa ra, dựa trên khái niệm cán cân thanh toán. Tóm lại, FDI có thể hiểu là hình thức đầu tư quốc tế, trong đó nhà đầu tư ở một nước bỏ toàn bộ hoặc đủ vốn để đầu tư vào một dự án ở một nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án này.
2. Đặc điểm của Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI trước hết là đầu tư tư nhân với mục đích chính là theo đuổi lợi nhuận. Theo cách phân loại đầu tư nước ngoài của nhiều tài liệu và theo quy định của pháp luật nhiều nước thì FDI là đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, pháp luật của một số nước (ví dụ Việt Nam) quy định trong trường hợp đặc biệt FDI có thể liên quan đến vốn nhà nước. Dù chủ thể là tư nhân hay nhà nước thì cũng phải khẳng định FDI lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu. Các nước tiếp nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển khi thu hút FDI cần đặc biệt lưu ý vấn đề này.
Nhà đầu tư nước ngoài phải góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn đăng ký theo quy định của pháp luật mỗi nước để nắm quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát công ty đầu tư. Các quốc gia thường có những quy định khác nhau về vấn đề này. Luật của Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam theo luật đầu tư 2014 không phân biệt giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư nước ngoài.Đầu tư trực tiếp và đầu tư nước ngoài là đầu tư gián tiếp mà gọi chung là đầu tư kinh doanh. Quy định của OECD (1996), tỷ lệ này là 10% cổ phần phổ thông hoặc quyền biểu quyết của công ty - mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia hiệu quả vào việc quản lý công ty. Tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư sẽ quyết định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia dựa trên tỷ lệ này.
Nhà đầu tư tự quyết định hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi lỗ. Hình thức này khả thi và rất kinh tế, không có ràng buộc chính trị. Thu nhập của nhà đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty mà anh ta bỏ vốn đầu tư, đó là thu nhập kinh doanh chứ không phải lãi.
FDI thường đi kèm với chuyển giao công nghệ cho nước tiếp nhận đầu tư thông qua việc chuyển giao máy móc, thiết bị, bằng sáng chế, phát minh, bí quyết kỹ thuật, nhân sự quản lý, v.v. nước sở tại để thực hiện dự án.
3. Cách phân loại vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Hoạt động FDI có thể được phân loại theo các hình thức khác nhau, đó là: (i) theo phương thức thâm nhập; (ii) tùy thuộc vào ngành và mối quan hệ thực tế giữa nhà đầu tư và bên nhận đầu tư; (iii) theo hướng dẫn của nước chủ nhà; (iv) theo định hướng của nhà đầu tư; và (v) dưới hình thức pháp lý.
3.1 Theo đường thâm nhập
Khoản đầu tư mới là khoản đầu tư của một công ty để xây dựng một cơ sở sản xuất, tiếp thị hoặc hành chính mới, trái ngược với việc mua lại các cơ sở kinh doanh hiện có. Như tên gợi ý, một công ty đầu tư thường mua đất trống và xây dựng nhà máy sản xuất, chi nhánh tiếp thị hoặc cơ sở khác để sử dụng riêng. Đây chính xác là những gì Ford đã làm, ví dụ bằng cách thành lập một nhà máy rất lớn bên ngoài Valencia, Tây Ban Nha.
Mua lại là đầu tư trực tiếp hoặc mua một công ty hoặc doanh nghiệp hiện có. Ví dụ, khi Home Deport thâm nhập thị trường Mexico, mua lại các cửa hàng và tài sản của một nhà bán lẻ sản phẩm kiến trúc, Home Mart. Nhà sản xuất máy tính cá nhân Lenovo của Trung Quốc đã nhanh chóng vươn ra quốc tế nhờ một kế hoạch mua lại đầy tham vọng. Năm 2004, Lenovo mua lại mảng kinh doanh PC của IBM, trị giá khoảng 2/3 doanh thu năm 2005 của hãng. Việc mua lại này đã mang lại cho Lenovo những tài sản phương pháp có giá trị, chẳng hạn như thương hiệu và mạng lưới phân phối. Việc mua lại đã giúp Lenovo mở rộng nhanh chóng trên các thị trường và trở thành một công ty toàn cầu.
Sáp nhập là một loại hình mua lại đặc biệt, trong đó hai công ty góp vốn với nhau để thành lập một công ty mới lớn hơn. Sáp nhập phổ biến hơn giữa các công ty có cùng quy mô vì họ có thể kết hợp các hoạt động của mình trên cơ sở tương đối bình đẳng. Một ví dụ gần đây là sự hợp nhất giữa Lucent Technologies ở Hoa Kỳ và Alcatel ở Pháp. Sự hợp nhất này đã tạo ra công ty thiết bị viễn thông lớn nhất thế giới (Alcatel - Lucent). Giống như liên doanh, sáp nhập có thể tạo ra nhiều kết quả tích cực, bao gồm học hỏi và chia sẻ tài nguyên giữa các đối tác, tăng tính kinh tế theo quy mô, giảm chi phí bằng cách loại bỏ các hoạt động dư thừa, mở rộng dòng sản phẩm dài hơn, dịch vụ bán hàng và sức mạnh thị trường lớn hơn. Các vụ sáp nhập xuyên biên giới cũng gặp nhiều thách thức do sự khác biệt về văn hóa, chính sách cạnh tranh, giá trị doanh nghiệp và phương pháp điều hành giữa các quốc gia. Việc đúc thành công đòi hỏi phải nghiên cứu, lập kế hoạch và cam kết ban đầu vững chắc.
3.2 Theo định hướng của nước sở tại
- FDI thay thế nhập khẩu. Hoạt động FDI được thực hiện nhằm sản xuất và cung cấp cho thị trường nước tiếp nhận đầu tư những sản phẩm mà trước đây nước này phải nhập khẩu. Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến hình thức FDI này là dung lượng thị trường, rào cản thương mại của nước sở tại và chi phí vận chuyển.
- FDI tăng cường xuất khẩu: Thị trường mà khoản đầu tư này "dự định" không hoặc không giới hạn ở nước sở tại, mà là các thị trường rộng lớn hơn trên thế giới và có thể là cả các thị trường ở nước sở tại. Yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến dòng vốn FDI theo hình thức này là khả năng cung cấp đầu vào giá rẻ của nước tiếp nhận đầu tư như nguyên vật liệu và bán thành phẩm.
- FDI theo hướng khác của chính phủ: Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư để điều chỉnh dòng FDI vào nước này theo ý đồ của mình, chẳng hạn như tăng cường thu hút FDI để giải quyết thâm hụt cán cân thanh toán.
3.3 Theo hình thức pháp lý
- Thỏa thuận hợp tác kinh doanh: là văn bản được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để đầu tư kinh doanh, trong đó quy định rõ trách nhiệm phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
- Công ty liên doanh” là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên, trường hợp đặc biệt có thể thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa hai hoặc nhiều nước để thực hiện đầu tư. và kinh doanh tại nước sở tại.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước sở tại, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
- BOT, BTO, BT.
BOT (Build-Operate-Transfer) nghĩa là Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao: là hình thức đầu tư theo hợp đồng đẳng cấp do Nhà nước kêu gọi tư nhân bỏ vốn đầu tư (Build), sau đó mới xây dựng, vận hành và vận hành (Operate) cho một số gian và cuối cùng là chuyển (transfer) về trạng thái nhà. Tương tự như BOT, có hai loại khác là BTO và BT. BTO (Build - Transfer - Operate) nghĩa là Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh, là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước sở tại; Nhà nước giao cho nhà đầu tư quyền khai thác các công trình này trong một thời hạn nhất định để thu lại vốn đầu tư và lợi nhuận. Còn BT (Build - Transfer) có nghĩa là xây dựng - chuyển giao là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước sở tại; Nhà nước tạo điều kiện để nhà đầu tư thực hiện dự án khác nhằm thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. Tùy theo từng dự án và mục đích của Nhà nước mà thực hiện các loại hình BOT, BTO hay BT.
4. Vai trò của Đầu tư nước ngoài (FDI) trong tổng thể phát triển kinh tế
Theo Hansen, mặc dù FDI vẫn được điều hành bởi chính phủ, nhưng FDI ít phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác, bên nước ngoài trực tiếp tham gia điều hành sản xuất kinh doanh nên tính khả thi của dự án khá cao, nhất là về khả năng tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Vì quyền lợi của họ gắn liền với dự án nên họ quan tâm đến hiệu quả của doanh nghiệp, để từ đó lựa chọn công nghệ phù hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của người lao động. Do đó, FDI ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế ở cả nước đầu tư và nước nhận đầu tư.
- Đối với nước đầu tư: đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả tận dụng lợi thế sản xuất của nước sở tại, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao tỷ suất hoàn vốn đầu tư và xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá cả phải chăng. nguyên vật liệu. giá cả. Mặt khác, đầu tư nước ngoài giúp mở rộng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, nước đầu tư có thể mở rộng thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ thương mại của các nước khác.
Đối với nước nhận đầu tư: (i) Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng to lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội như thất nghiệp, lạm phát... Thông qua các tổ chức FDI, các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại các công ty, công ty có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình kinh tế tình hình thanh toán và giải quyết việc làm cho người lao động. FDI cũng tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức thuế để cải thiện bội chi NSNN, tạo môi trường cạnh tranh thúc đẩy kinh tế, doanh nghiệp phát triển, giúp người lao động và ban lãnh đạo học hỏi được kinh nghiệm quản lý từ các nước; (ii) Đối với các nước đang phát triển, FDI góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách tạo ra các doanh nghiệp mới, thu hút nhiều lao động và giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp ở các nước này. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn dài hạn. Nhờ đó, mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn và nguồn lực tài chính khan hiếm được giải quyết, nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Sau FDI, máy móc và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học và công nghệ mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất làm giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, các tri thức quản lý kinh tế - xã hội hiện đại đã du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước đã bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động đã làm quen với tác phong công nghiệp, dần dần hình thành đội ngũ doanh nhân giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hóa nước ngoài và đi kèm với các hoạt động tiếp thị ngày càng mở rộng.
FDI góp phần tăng thu ngân sách nhà nước bằng cách đánh thuế các công ty nước ngoài. Kết quả là các nước đang phát triển có thể huy động tốt hơn các nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Tại Việt Nam, FDI đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, lũy kế đến ngày 20/12/2019, cả nước có 30.827 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 362,58 tỷ USD. Nhiều hãng lớn trên thế giới đã chọn Việt Nam là “cứ điểm” sản xuất như Samsung, LG, Toyota, Honda, Canon… Riêng năm 2019, tổng vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt 38 tỷ USD. Doanh nghiệp FDI đã trở thành khu vực phát triển năng động, đóng góp gần 20% GDP và là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển quan trọng của Việt Nam với tỷ trọng khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu. từ đất nước. Riêng năm 2018, khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp 13,6% tổng thu NSNN; tạo việc làm trực tiếp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 330.000 người năm 1995 lên khoảng 4 triệu người năm 2018; đồng thời tạo việc làm gián tiếp cho khoảng 5 - 6 triệu lao động...
Nội dung bài viết:
Bình luận