Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Bảo lãnh là một hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cụ thể, là một nghiệp vụ trong hoạt động ngân hàng.![]()
Hiện nay, nền sản xuất phát triển, hàng hóa và sự ra đời của tiền tệ ngày càng phát triển. Hoạt động sản xuất, thương mại phát triển đồng nghĩa với việc trao đổi hàng hóa giữa các vùng, các quốc gia gặp phải những khó khăn nhất định trong quá trình mua bán, thanh toán và chuyển đổi tiền tệ.
Do đó, việc các thương nhân phải thực hiện công việc trao đổi tiền tệ từ các khu vực và quốc gia khác nhau khiến việc trao đổi hàng hóa trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Vì vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng các dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh là một trong những hoạt động phát triển của ngân hàng hiện nay. Các rủi ro khác nhau trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng là nguồn gốc ra đời của nhiều loại hình bảo lãnh.
Mặc dù về bản chất chúng được phát hành với mục đích chung là bảo vệ người thụ hưởng trước những rủi ro phát sinh do người bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ. Bảo lãnh ngân hàng là việc ngân hàng cam kết trả tiền bồi thường thiệt hại cho bên thụ hưởng hợp đồng trong giới hạn số tiền đã được xác định trong bảo lãnh nếu bên đối ứng không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong hợp đồng.1. Khái niệm về hoạt động bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh là một khái niệm được nhìn dưới nhiều góc độ, ở mỗi góc độ lại được hiểu theo một nghĩa khác nhau. Dưới góc độ pháp lý: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với chủ nợ (gọi là bên bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên nợ (gọi là bên bảo lãnh) nếu Khi đến thời hạn mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ của mình - Điều 366 Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam 2005.
Đó là khái niệm bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự, cũng có thể hiểu là bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với ý nghĩa tương tự. Theo quy định tại Mục 20 Luật các tổ chức tín dụng 2010, bảo lãnh ngân hàng là: “Việc tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) cam kết bằng văn bản với bên cho vay (bên bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ đã cam kết với bên bảo lãnh thì khách hàng phải nhận nợ và thay mặt tổ chức tín dụng hoàn trả số tiền đã trả cho tổ chức tín dụng.2. Hoạt động cốt lõi của Ngân hàng:
Các hoạt động gây quỹ.
Các ngân hàng có thể tạo vốn bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là từ tiền gửi của các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Có ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và ngoài ra ngân hàng còn vay của các cá nhân, tổ chức hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc bằng các hình thức khác.
Đặt cọc bằng tiền gửi. Giao dịch tiền gửi, dịch vụ cấp số nhân là một trong những dịch vụ đầu tiên được cung cấp bởi các ngân hàng, liên quan đến việc nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán thay cho khách hàng. Dịch vụ này có vốn và chi phí thấp, nhưng mặt khác có quy mô rất lớn, đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay các lệnh rút tiền cho cá nhân hoặc bên thứ ba. Các cá nhân, tổ chức sử dụng loại tài khoản này chủ yếu dùng để thanh toán cho khách hàng. Nó vừa là tài sản của khách hàng, vừa là khoản nợ của ngân hàng và ngân hàng có trách nhiệm trả lại cho người gửi vào mọi thời điểm. Thông qua đây, ngân hàng có thể huy động vốn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng và thu phí dịch vụ cũng như cung cấp cho khách hàng những tiện ích nhất định.
Tiền gửi phi giao dịch với tiền tiết kiệm được thực hiện để gây quỹ mà một số khách hàng muốn dành riêng cho nhu cầu tài chính trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn so với tiền gửi giao dịch, phí trả lãi cao, phí duy trì và quản lý thấp. Tiền gửi có kỳ hạn có số tiền gửi cố định và thời điểm rút tiền thường khá ổn định. Kỳ hạn gửi càng dài, lãi suất càng cao và ổn định.
Ngân hàng thường vay từ các tổ chức tín dụng và các ngân hàng khác. Vay trực tiếp bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, bán tín phiếu kho bạc, vay trên thị trường liên ngân hàng, vay NHTW bằng tái chiết khấu.
Hoạt động sử dụng vốn
Đây là hoạt động ngân quỹ đảm bảo dự trữ tự nguyện, dự trữ bắt buộc, tính thanh khoản và tiền mặt khi thu về. Hoạt động thanh toán bù trừ, giao dịch tiền gửi với các tổ chức tín dụng khác. Đó là hoạt động kiểm soát tình trạng tiền mặt không sinh lời của ngân hàng. Hoạt động cho vay, theo từng tiêu chí có thể phân thành các loại cho vay theo mục đích sử dụng, theo tài sản đảm bảo hay theo thời hạn… Có thể nói cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán và hoạt động ủy thác của khách hàng. Các ngân hàng sử dụng vốn để mua chứng khoán an toàn cao. Ngoài ra, ngân hàng cũng đã thành lập các công ty chứng khoán với các nghiệp vụ như tư vấn, bảo lãnh, lưu ký, môi giới chứng khoán… Các ngân hàng có thể cung cấp cả dịch vụ ủy thác truyền thống cho các cá nhân và hộ gia đình và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Các hoạt động trung gian như: chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, tiền mặt, cầm cố, thanh toán bằng séc, bảo lãnh, tư vấn tài chính, môi giới….3. Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh ngân hàng:
Từ khái niệm trên có thể thấy rằng bảo lãnh ngân hàng thực chất là một hình thức bảo lãnh cụ thể để thực hiện nghĩa vụ dân sự, do đó nó vừa mang những đặc điểm chung của bảo lãnh, vừa mang những đặc điểm riêng mà chỉ có ở các nghiệp vụ bảo lãnh. các tổ chức tín dụng.
Trước hết, với tính chất là một biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ dân sự, bảo lãnh ngân hàng có các thuộc tính chung sau:
Bảo lãnh ngân hàng là một biện pháp bảo lãnh đối ứng: Có nghĩa là chủ nợ (CBD) có quyền trực tiếp yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận mà không cần phải thực hiện. loại tài sản ưu tiên khác. Do đó, trong trường hợp bên bảo lãnh không có tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết với bên bảo lãnh thì cam kết này không bị vô hiệu.
Phạm vi bảo đảm có thể là toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của chủ nợ, tuỳ theo thoả thuận giữa các bên. Ngoài những đặc điểm chung của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, bảo lãnh ngân hàng còn có những đặc điểm sau:
Về bản chất pháp lý, bảo lãnh ngân hàng là một loại giao dịch thương mại cụ thể. Tính thương mại của hoạt động này thể hiện ở chỗ, hoạt động bảo lãnh ngân hàng được các tổ chức tín dụng thực hiện vừa trên “thị trường” vì lợi nhuận, vừa mang tính chuyên nghiệp như một nghiệp vụ thương mại. Do đó, để thực hiện hoạt động này, công ty cần phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Về chủ thể, chủ thể của hoạt động bảo lãnh ngân hàng luôn là các tổ chức tín dụng. Do rủi ro bảo lãnh ngân hàng cao nên nghiệp vụ này phải được thực hiện bởi các chủ thể nghiệp vụ có điều kiện vốn chủ sở hữu, đó là các tổ chức tín dụng. Trong bảo lãnh ngân hàng, tổ chức tín dụng không chỉ là người bảo lãnh mà còn là nhà kinh doanh, đảm bảo cho tổ chức tín dụng sinh lãi cho mình.
Giao dịch bảo hành làm phát sinh hai hợp đồng: hợp đồng dịch vụ bảo hành và hợp đồng bảo hành. Hai hợp đồng này vừa liên quan vừa riêng biệt, có mối quan hệ nhân quả với nhau nhưng hoàn toàn độc lập với nhau. Điều này thể hiện ở chỗ, nếu hợp đồng này vô hiệu thì hợp đồng kia không đương nhiên vô hiệu.
Giao dịch bảo lãnh ngân hàng không phải là giao dịch nhiều bên mà là giao dịch kép. Như vậy, tổ chức tín dụng phải lần lượt ký kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không huỷ ngang được thực hiện bởi đại diện có thẩm quyền của tổ chức tín dụng bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện trên cơ sở chứng từ.4. Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh ngân hàng có chức năng tài trợ (thông qua bảo lãnh, khách hàng được bảo lãnh không phải ký quỹ, được vay hoặc được gia hạn thời gian thanh toán hàng hóa, dịch vụ) và chức năng bảo lãnh (theo chức năng này). , người thụ hưởng sẽ được bồi thường tài chính trong trường hợp bên bảo lãnh vi phạm cam kết). Vai trò của hoạt động bảo lãnh ngân hàng là vô cùng quan trọng, đối với mỗi chủ thể lại có vai trò riêng:
Đối với công ty: Trong quan hệ kinh tế, không phải lúc nào các đối tác cũng tin tưởng lẫn nhau vì nhiều lý do. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho mối quan hệ làm ăn, nhà cung cấp thường yêu cầu đối phương phải có bảo lãnh của ngân hàng thì mới thực hiện được giao dịch. Vì vậy, bảo lãnh ngân hàng đôi khi là một yêu cầu bắt buộc để bước đầu giúp các công ty có cơ hội tiếp cận hợp đồng. Ngoài ra, bảo lãnh giúp doanh nghiệp tiết kiệm các khoản vay lớn, có thêm nguồn tài chính cho nhu cầu vốn lưu động của họ và doanh nghiệp phải trả mức phí tương đối thấp.
Đối với các tổ chức tín dụng: Đối với ngân hàng, bảo lãnh là một phần trong các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Bảo lãnh mang lại một lợi ích trực tiếp cho ngân hàng đó là hoa hồng bảo lãnh. Phí bảo lãnh đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng ở mức độ lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay, không chỉ đóng góp vào lợi nhuận còn đảm bảo đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro về vốn sự mất mát.
Nội dung bài viết:
Bình luận