Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội không phát triển tư bản chủ nghĩa. Không phải là hiện tượng đi tắt đón đầu trong lịch sử phát triển nhân loại, nhưng chúng ta là một trong những nước đầu tiên xác định và kiên trì lựa chọn con đường CNXH bằng cách bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến.
Sự phát triển đi tắt đón đầu một hình thái kinh tế - xã hội hay rút ngắn từng giai đoạn của một hình thái tự nó là một quá trình hợp lý, phù hợp với lịch sử tự nhiên.
Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn tụt hậu so với thế giới hiện đại, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước mắt phải tránh nguy cơ tụt hậu. rơi vào bẫy thu nhập trung bình đòi hỏi Việt Nam phải tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, vượt trội của lực lượng sản xuất. Để làm được điều này, trước hết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về kinh tế, có thể nói cốt lõi của phát triển rút ngắn ở Việt Nam là rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã cho thấy nhiều nền kinh tế đã rút ngắn được quá trình công nghiệp hóa như Phần Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Nếu Tây Âu phải đi một chặng đường gần 5 thế kỷ (cuối thế kỷ 14, chủ nghĩa tư bản bắt đầu ở Tây Âu) thì Nhật Bản chỉ mất 100 năm để sánh ngang với các nước tư bản phương Tây về trình độ tư bản. phát triển kinh tế thông qua quá trình công nghiệp hóa rút ngắn. Với định hướng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kinh tế chậm phát triển với mục tiêu đặt ra là đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo nghĩa phát triển rút ngắn, hiện đại. Và trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức hiện nay, công nghiệp hóa phải kết hợp với hiện đại hóa và dựa trên nền kinh tế tri thức.
Rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với Việt Nam hiện nay không chỉ là rút ngắn thời gian của quá trình nâng lên trình độ hiện đại của thế giới, mà còn phải có phương thức phù hợp để đi tắt, thông cho phép đi qua các giai đoạn quá độ, hoặc đi qua một số giai đoạn tuần tự để tiến thẳng tới hiện đại. Quá trình rút ngắn này phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả của sự phát triển, tức là đảm bảo tính bền vững của sự phát triển. Để rút ngắn thời gian tất nhiên phải tạo ra tốc độ phát triển nhanh. Phát triển nhanh trên cơ sở huy động nội lực và nắm bắt cơ hội giao lưu hội nhập quốc tế. Chỉ có phát triển nhanh mới bảo đảm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển hơn ta. Trong tăng tốc phát triển, cần tránh khuynh hướng “tăng tốc”, tức là phát triển mà không chú ý đến hiệu quả.
Cùng với tốc độ phát triển, cần có phương pháp phù hợp để tìm ra con đường tắt mới nhanh chóng theo kịp nhịp độ của các nước đi trước. Chẳng hạn, về công nghệ, có thể thực hiện theo hình thức nhập khẩu công nghệ, trên cơ sở này tiếp cận công nghệ hiện đại, tạo lực lượng sản xuất phát triển nhanh, mạnh. Ngoài ra, tiếp cận với các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến phù hợp với bước phát triển mới của năng lực sản xuất, tạo cơ sở hạ giá thành, nâng cao năng suất lao động. Tăng trưởng kinh tế nhanh là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường... Nhưng cũng chính vì tăng trưởng nhanh mà hàng loạt vấn đề nảy sinh cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội như bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường... Vì vậy, cần có cơ chế bảo đảm tăng trưởng đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, cải thiện môi trường. Nói cách khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là ngắn hạn nhưng lâu dài. Bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và con người.
Với suy nghĩ đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã chỉ rõ “phải đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển...mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng” và xác định “phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt của Chiến lược phát triển”, với nội dung chủ yếu là “phát triển kinh tế phải bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an ninh kinh tế”. Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh là hàng đầu, tập trung phát triển theo chiều sâu và phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi kèm với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh, yêu cầu phát triển nhanh cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách. Phát triển bền vững là cơ sở của phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Vì vậy, phát triển nhanh, bền vững phải luôn gắn chặt với quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt chú trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ bảo đảm phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua được rút ngắn đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao. Chỉ tính riêng giai đoạn (1991 - 2011), GDP của Việt Nam tăng trưởng bình quân 7,34%/năm, thuộc loại cao ở châu Á và thế giới; năm 2011 gấp 5,5 lần năm 1985, gấp hơn 4,4 lần năm 1990 và gấp 2,1 lần năm 2000(1). Trong giai đoạn 2011 - 2013, GDP tăng bình quân 5,6%, đưa quy mô nền kinh tế đạt 176 tỷ USD vào năm 2013 (2) . Với tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Với GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.061 USD theo tỷ giá hối đoái và 2.948 USD theo sức mua tương đương (PPP), Việt Nam chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB).
Vào năm 2013, chúng tôi đã tăng thu nhập bình quân đầu người lên 1.960 đô la. Chúng tôi cũng đã mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo số liệu năm 2013 của Tổng cục Hải quan, Việt Nam duy trì quan hệ thương mại, trao đổi với gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD tăng từ 25 thị trường năm 2012 lên 27 thị trường năm 2013 và nhập khẩu tăng từ 13 lên 17 thị trường. Nhìn tổng thể, sau gần 30 năm đổi mới, tăng trưởng kinh tế và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, Việt Nam đã bảo đảm ổn định mọi mặt chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh. . Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có quan hệ mật thiết với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả xuất sắc, do tính chất phức tạp của quy trình phát triển rút gọn, chưa có tiền lệ, nên cũng nảy sinh nhiều vấn đề.
Thứ nhất, năng suất lao động thấp và nợ công tăng cao. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây phần lớn đã phát triển. Phát triển kinh tế quy mô lớn thường đòi hỏi vốn đầu tư cao, trong khi đổi mới công nghệ ít được quan tâm. Do đó, năng suất lao động thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao, điều này cho thấy chỉ số ICOR của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiệu quả thấp và đáng kinh ngạc của các khoản đầu tư tích lũy qua nhiều năm là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao. Cầu đầu tư tăng cao dẫn đến tình trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy của nền kinh tế, bội chi ngân sách luôn ở mức cao. Để bù đắp thiếu hụt, chúng ta phải dựa vào vốn đầu tư và vay nợ từ nước ngoài. Điều này đã dẫn đến nợ công tăng nhanh trong thời gian qua.
Thứ hai, vấn đề thu nhập - tiền lương còn bất cập. Trong nhiều năm qua, nhà nước luôn cố gắng cải cách chính sách tiền lương và thu nhập nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội và thích ứng với tốc độ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm. Theo số liệu của Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến 2014, mức lương tối thiểu chung của người lao động khu vực hành chính sự nghiệp đã được điều chỉnh 7 lần, từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 01/05/2012, quyết định tăng mức lương tối thiểu vùng lên 1.050.000 đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở mức quy định của hệ thống tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 - 2012, điều chỉnh theo tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng ngân sách của ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, với mức sống hiện nay, mức lương tối thiểu này hoàn toàn không đủ để người lao động sống trong một tháng, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội hay TP.HCM. Khi lạm phát ngày càng đẩy giá tiêu dùng tăng nhanh như những năm gần đây, đời sống của người lao động ngày càng khó khăn. Hiện lộ trình tăng lương đang gặp khó khăn do thu nhập của nền kinh tế còn yếu, chưa thực sự hiệu quả.
Thứ ba, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Việc quy hoạch, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên khoáng sản, đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên biển còn bất hợp lý, kém hiệu quả; Biến đổi khí hậu, các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan và ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng cả về tần suất và cường độ, tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Thứ tư, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và chênh lệch trình độ phát triển giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị... ngày càng diễn biến phức tạp, để lại nhiều hệ lụy về kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân của người Việt Nam dù đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn kém xa so với nhiều nước ASEAN và Trung Quốc.
Những bất cập trên có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân đó là việc xây dựng và thực thi chính sách còn nhiều hạn chế. Quá trình quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hoạch định chính sách phát triển chưa kết hợp chặt chẽ, lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý, giám sát phát triển bền vững chưa được thiết lập rõ ràng và hiệu quả. Nói cách khác, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, chúng ta chưa có sự điều phối chính sách đồng bộ để bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững. Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín, hiện chưa có quy định cụ thể để huy động hiệu quả trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia hoạch định chính sách; Chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp nhận phản hồi từ những đối tượng chịu tác động của chính sách.
Cần hệ thống giải pháp đồng bộ, phát huy nội lực và ngoại lực, để quá trình phát triển được rút ngắn.
Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa trang thiết bị, điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và an ninh - quốc phòng. Xét về góc độ kinh tế, cốt lõi của vấn đề là bảo đảm các điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Có thể nói, công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn vừa là điều kiện, vừa là nội dung cơ bản của quá trình phát triển rút ngắn, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện CNH, HĐH rút ngắn đòi hỏi hàng loạt điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách.
Thứ nhất, điều kiện về vốn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại đòi hỏi nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa quan trọng. Nguồn vốn bên trong được hình thành từ: vốn tích lũy của ngân sách, vốn tích lũy của doanh nghiệp và vốn chưa sử dụng trong dân cư. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai thác và quản lý, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, tiết kiệm. Vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình thức: vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; các khoản vay ngắn hạn và dài hạn với các mức lãi suất khác nhau ở các quốc gia và tổ chức kinh tế; Vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh... Biện pháp cơ bản để tận dụng và thu hút vốn nước ngoài là đẩy mạnh và mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường thị trường thuận lợi cho các nhà sản xuất và công ty nước ngoài, có tính đến việc tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn của các nước. Ở nước ta hiện nay vốn trong nước còn hạn chế nên việc tranh thủ khai thác các nguồn vốn từ bên ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc tạo lập vốn phải gắn liền với quản lý và sử dụng tốt, có hiệu quả, khai thác tối đa khả năng vốn hiện có.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi huy động vốn lớn và trên thực tế, từ khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để huy động các nguồn vốn. Theo Tổng cục Thống kê, quy mô vốn đầu tư trong những năm gần đây luôn tăng qua các năm. Cụ thể, năm 1996, tổng vốn đầu tư của cả nước (theo giá so sánh 1994) là: 74.315 tỷ đồng, năm 2000: 115.109 tỷ đồng, năm 2005: 213.931 tỷ đồng, năm 2010: 400.183 tỷ đồng. Tỷ trọng vốn đầu tư trên GDP luôn duy trì ở mức cao, bình quân 48,8% GDP/năm giai đoạn 1996-2012. Đây là mức cao so với nhiều nước trong khu vực và chỉ đứng sau Trung Quốc. Tổng vốn đầu tư hàng năm cũng thường cao hơn tổng tích lũy tài sản trong nước, trong đó 4 năm liên tiếp (2007 - 2010) tốc độ đầu tư cao gấp 1,5 - 1,6 lần tính theo tích lũy so với GDP. Trong tổng nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển, vốn nhân dân chiếm khoảng 1/3, vốn nước ngoài khoảng 1/5, vốn nhà nước gần 1/2.
Bằng việc huy động các nguồn lực lớn cho đầu tư, trong những năm qua chúng ta đã tạo ra sự phát triển kinh tế với tốc độ khá cao, tạo nền tảng cho việc cải thiện đời sống và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hiệu suất sử dụng vốn thực tế của Việt Nam chưa cao. Nghiên cứu thực tiễn phát triển của các nước trong khu vực cho thấy, trong 20 năm, từ 1961 - 1980, để đạt được tốc độ tăng trưởng như Hàn Quốc: 7,9%/năm và Đài Loan tới 9,7%/năm, hai nước này chỉ cần 23- 26% vốn đầu tư. chỉ số GDP, ICOR dưới 3,0. Trong khi đó, Việt Nam hiện cần vốn đầu tư trên 40% GDP, ICOR trên 6,0 mới đạt tốc độ tăng trưởng 5-7% (3). Mặc dù nhiều năm qua chúng ta đã cố gắng nâng cao chất lượng tăng trưởng nhưng hệ số ICOR vẫn ở mức cao, ở mức 6,7 giai đoạn 2008 - 2010 và 5,53 giai đoạn 2011 - 2013. Nghĩa là chúng ta phải bỏ ra 5,53 đồng để tạo ra 1 đồng. để tăng GDP.
Trước tình hình đó, trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, cần có những giải pháp chính sách quyết liệt để chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất chứ không chạy theo xu hướng tăng tỷ trọng vốn đầu tư/GDP vốn đã ở mức rất cao so với các nước trong khu vực. khu vực. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế kém hiệu quả, việc tăng vốn bằng tích luỹ nội bộ là rất khó. Bên cạnh đó, mặc dù trong thời gian qua chúng ta đã nỗ lực huy động vốn nước ngoài nhưng thực tế cho thấy hiệu quả chung của vốn đầu tư nước ngoài chưa cao. Để có sự phát triển ngắn hạn và lâu dài, cũng như đáp ứng nhu cầu về vốn, tỷ trọng vốn trong nước phải tăng lên. Muốn vậy, tỷ lệ tiết kiệm phải tăng nhanh hơn tỷ lệ tiêu dùng, tỷ lệ tiết kiệm phải tăng nhanh hơn tỷ lệ đầu tư, và tỷ lệ đầu tư không được tăng quá nhanh so với tỷ lệ tích trữ. Đây là những quan hệ ràng buộc cần thiết để đảm bảo gia tăng vốn trong nước trở thành nguồn vốn có vai trò quyết định đối với tăng trưởng.
Thứ hai, điều kiện công nghệ. Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển rút ngắn. Kinh nghiệm của một số nước thực hiện phát triển đi tắt đón đầu cho thấy, việc xác định chiến lược phát triển công nghệ hợp lý sẽ giúp tận dụng được công nghệ tiên tiến của thế giới kết hợp với công nghệ truyền thống sẵn có để khai thác và phát huy các nguồn lực phát triển. Trong thời đại công nghệ thông tin, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta không chỉ biến Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp mà quá trình này còn phải kể đến sự khởi đầu của xã hội thông tin. Vì vậy, trong chiến lược phát triển công nghệ cần chú trọng phát triển cả công nghệ cao và công nghệ truyền thống, trong đó ưu tiên xu thế phát triển của công nghệ cao. Làm thế nào để có được công nghệ cao hiện đại khi nguồn vốn hạn chế là một thách thức lớn đối với chúng ta hiện nay. Không tiếp cận được với công nghệ cao hiện đại thì khó nói đến phát triển chậm.
Tuy nhiên, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên tiềm lực khoa học và công nghệ còn thấp, trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu. Điều này thể hiện ở mức độ tự động hóa thấp, chậm đổi mới công nghệ, tỷ trọng các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ cao cũng như số lượng sáng chế thấp. Ngoài công nghệ tiên tiến mới được đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, dầu khí, điện tử gia dụng, phát điện, xi măng nói chung, trình độ công nghệ của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta hiện nay đều đi sau khoảng 2 - 3 thế hệ. công nghệ so với các nước trong khu vực. Theo báo cáo khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), Tổng cục Thống kê và Đại học Copenhagen (Đan Mạch) về “Năng lực cạnh tranh và công nghệ của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam: Kết quả từ cuộc 'điều tra năm 2012', các doanh nghiệp có hoạt động chuyển giao công nghệ có năng suất cao hơn nhưng chỉ có một số doanh nghiệp đầu tư phát triển sản phẩm hoàn toàn mới và tham gia cải tiến, đổi mới công nghệ. Hầu hết các công nghệ được chuyển giao cho Việt Nam đều tương đương hoặc vượt trội so với công nghệ hiện có của Việt Nam, nhưng cũng chỉ ở mức trung bình so với các nước trong khu vực. Hơn 80% doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng công nghệ trung bình thế giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% sử dụng công nghệ cơ bản và lạc hậu. Thực trạng này làm hạn chế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế trong khuôn khổ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Như vậy, rõ ràng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, cần phải nhanh chóng chuyển từ khâu nhập - cải tiến công nghệ sang khâu nghiên cứu, phát minh công nghệ. Chỉ có như vậy mới góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Đây là những câu hỏi chính trị đòi hỏi sự quan tâm đầu tư thích đáng để giải quyết. Điều này xuất phát từ vai trò của công nghệ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, thực trạng nguồn nhân lực. Trong mọi thời đại, con người luôn là nhân tố nền tảng của sự phát triển. Con người khỏe mạnh, lành nghề sẽ đem lại năng suất lao động cao. Năng suất là cái quyết định sự thành công của một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mới. Trong nền kinh tế thị trường muốn có đội ngũ lao động khỏe mạnh, nhiệt tình thì cần phải có đội ngũ giỏi chuyên môn. Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Hàn Quốc đã chỉ ra vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ bán hàng trong quá trình phát triển rút ngắn. Cùng với đó, xét trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, yếu tố kỹ thuật có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất. Để có công nghệ tiên tiến phải đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi. Họ là những người tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới vào nước mình, là những người sẽ đề xuất, xây dựng những quy trình công nghệ mới nhằm tăng nhanh năng suất, rút ngắn các giai đoạn phát triển.
Nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay phản ánh rõ nét đặc điểm cơ cấu nguồn nhân lực của nền kinh tế, lấy nông nghiệp làm chủ đạo, đang phát triển và chuyển sang nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở đó, lực lượng lao động chủ yếu làm trong khu vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có chuyên môn nghiệp vụ còn thấp, đa số là lao động giản đơn. Cơ cấu nguồn nhân lực này có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ, thể hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông - công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, hiện đại hóa. Xét về cơ cấu lãnh thổ và ngành kinh tế, nguồn nhân lực chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Về cơ cấu trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật, nguồn lao động nước ta còn yếu so với các nước trong khu vực. Bà Nicola Connolly (Nicola Connolly), Tổng Giám đốc Adeco Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Nhân sự Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam cho biết: Trong ASEAN, Việt Nam xếp ở nửa dưới về phát triển nguồn nhân lực. Hiện có hơn 65% người đi làm là lao động phổ thông, tỷ lệ này còn cao hơn ở nhóm thanh niên 20-24 tuổi là 75%.
Có thể tóm tắt thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam là số lượng nhiều, chất lượng chưa cao, thể hiện tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có tổng công sư, kỹ sư, nhà khoa học học rất giỏi; không có chuyên gia giỏi; không có chuyên gia tư vấn và cố vấn giỏi; không có người thuyết trình giỏi; Không có người lãnh đạo, quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài nhận xét người Việt Nam khá thông minh, nắm bắt và tiếp thu cái mới rất nhanh. Đáng tiếc là nó chưa được khai thác triệt để, đào tạo chưa bài bản đã ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực và ảnh hưởng đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung. Rõ ràng cần có những giải pháp chính sách giải quyết những vấn đề nêu trên nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư, trên thị trường. Chúng ta biết rằng không thể phát triển kinh tế thị trường nếu không có thị trường vì thị trường là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đối với các nước đang phát triển, thị trường không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hóa mà còn là nơi tiếp cận vốn, lao động, công nghệ... Vì vậy muốn phát triển nhanh không thể không mở rộng thị trường, gia nhập hội nhập quốc tế. . nhập khẩu. Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa lôi kéo các quốc gia vào thị trường chung toàn cầu. Nói cách khác, hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, nhưng hội nhập như thế nào để tận dụng điều kiện thị trường lại phụ thuộc vào nội lực và chiến lược hội nhập của mỗi quốc gia.
Trong gần ba thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã tích cực, chủ động mở cửa hội nhập, nhờ đó quy mô và dư địa thị trường ngày càng tăng. Năm 2013, Việt Nam mua bán, trao đổi hàng hóa với gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng mặc dù đã mở rộng quan hệ quốc tế nhưng việc thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Tức là chất lượng hàng hóa, dịch vụ còn hạn chế, xúc tiến thương mại chưa thực sự bài bản, nguồn lực hạn chế, mất thị phần… Đây cũng là những vấn đề đòi hỏi phải có định hướng chính sách thúc đẩy và giải quyết nhằm mở rộng thị trường, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ năm, về cơ chế, chính sách. Đó cũng là vấn đề đáng được quan tâm, ưu tiên trong công cuộc đổi mới hiện nay. Thực tế cho thấy, nếu có cơ chế, chính sách phù hợp thì đó là “nguồn lực” quan trọng để thúc đẩy phát triển, hay chính xác là cơ sở để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài nguyên. Trong quá trình gần 30 năm đổi mới, những kết quả đạt được gắn liền với đổi mới cơ chế, chính sách, những hạn chế yếu kém cũng phần lớn do những hạn chế của cơ chế, chính sách cản trở sự phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất tuân theo những quy luật riêng của nó, vì vậy để thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, Việt Nam phải vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước, nhất là các nước trong khu vực trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore.. • trong việc xây dựng, xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Về vấn đề này, cũng đã có ý kiến của nhiều chuyên gia, cụ thể tập trung vào một số hướng lớn sau:
- Trước hết, cần quan tâm đầu tư cho việc nghiên cứu những vấn đề đặt ra của chính sách, trong đó có việc đánh giá các điều kiện thực hiện chính sách nhằm bảo đảm chính sách có tính khả thi cao. Để làm được điều này cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng của các cấp, các ngành cả về lãnh đạo, chỉ đạo và đầu tư nguồn lực, đồng thời mở rộng các đơn vị tham gia nghiên cứu chính sách phục vụ hoạch định chính sách.
- Thứ hai, phải xác định rõ nội dung chính trị đưa vào luật thể chế hóa. Trong hoạch định chính sách, nhất là khi nước ta đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập, chúng ta phải nghiên cứu chính sách trên bình diện lý luận và thực tiễn, dự báo, đánh giá tác động kinh tế, chính sách xã hội, so sánh chính sách, lựa chọn chính sách nào là tối ưu, phù hợp với thực tiễn. và nhu cầu phát triển của Việt Nam.
- Thứ ba, cần xây dựng chính sách phù hợp với chiến lược và định hướng chiến lược phát triển các ngành kinh tế - xã hội trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ đó bảo đảm tính ổn định của chính sách. Tất nhiên, ổn định ở đây không có nghĩa là không thay đổi mà chính sách có thể thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, chính sách phải ổn định, nhất quán thì pháp luật mới ổn định, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi.
- Thứ tư, cần đổi mới phương thức xây dựng và phê duyệt chính sách, bảo đảm công khai, lấy ý kiến, tham vấn của đối tượng chịu sự điều chỉnh. Cụ thể, cần áp dụng các phương pháp khoa học để kiểm định các phương pháp dự kiến chính sách, soạn thảo luật mà các nước đã áp dụng như: đánh giá tác động chính sách (RIA), phương pháp phân tích… các nhân tố ảnh hưởng đến quy trình lập pháp.
Có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đứng trước cơ hội lớn, điều kiện phát triển bị rút ngắn. Trong bối cảnh hiện nay, việc tạo lập cơ chế chính trị phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng để phát huy các nguồn lực, thực hiện các mục tiêu đề ra, để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Nội dung bài viết:
Bình luận