Có người còn đồng nhất tôn giáo với mê tín, lạc hậu. Ngay trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2000 có viết: “Mê tín dị đoan: Tin một cách mù quáng vào thần linh, ma quỷ, số mệnh, phép lạ” (tr. 628). Tuy nhiên, ngày nay nhiều học giả cho rằng tôn giáo không đồng nhất với dị đoan, lạc hậu, mặc dù chúng đều tồn tại trên cơ sở tín ngưỡng. GS Đặng Nghiêm Vạn, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo cho rằng: “Cũng cần thấy rằng, niềm tin tôn giáo không phải là sự cuồng tín, ảo tưởng thiếu suy nghĩ… Người tín đồ tôn giáo trước hết là người có hiểu biết về một “trí thức” nào đó. " điều ta tin, điều ta cho là thiêng liêng. Không thể coi tín ngưỡng tôn giáo là hiện tượng phản văn hóa, đi ngược lại sự tiến bộ, văn minh"(1). Chúng ta có thể xem xét điều này qua trường hợp của Công giáo.

1. Đạo Công giáo nghiêm cấm các hành vi mê tín, dị đoan
Công giáo là một tôn giáo độc thần, do đó giáo lý của nó cấm thờ các thần khác và mọi hành vi ảnh hưởng đến bản sắc như đã nêu trong điều răn thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và tôn kính Đức Chúa Trời trên hết mọi sự. Vì vậy, những hiện tượng được coi là quen thuộc với phong tục dân gian Á Đông và Việt Nam như lên đồng, bói toán, chọn ngày tốt xấu, chọn nơi chôn cất, đốt vàng mã… đều bị Đạo Công giáo nghiêm cấm các tín đồ tham gia. . Bất cứ ai vô tình hay cố ý tham gia đều bị coi là vi phạm điều răn thứ nhất và buộc phải ăn năn xưng tội trước toà giải tội. Ngay từ khi bắt đầu truyền giáo tại Việt Nam, nhiều nhà truyền giáo, mặc dù ý thức rằng đất nước này còn nhiều điều tốt đẹp, từ truyền thống gia đình đến văn hóa, xã hội, nhưng cũng chỉ ra nhiều hủ tục mê tín, dị đoan. Alexander of Rhodes (Đắc Lộ) dành chương 25 trong cuốn Lịch sử Vương quốc Tunquin để nói về những phong tục lạc hậu này. Ông viết: “Người dân Bắc Kỳ có lòng hiếu thảo rất đặc biệt đối với cha mẹ đã khuất và tiêu xài phung phí vào ngày sinh nhật. Thế là không những nghèo đi mà còn mắc nợ, vì chạy theo phong tục, lễ nghi nên họ không chỉ chi tiêu trên bàn ăn mà còn chi tiêu cho những nghi lễ khác, vừa không cần thiết vừa vô ích, mà theo đối với việc điều trị, họ không thể bỏ qua nó. Chẳng hạn, họ gấp rút xây nhà, mua dụng cụ nấu ăn bằng tre và giấy rồi đốt chúng. Họ dại dột tin rằng nhờ đồ vàng mã này mà người đã khuất sẽ có nhà cửa khang trang, đồ đạc tươm tất ở thế giới bên kia. Điên rồ không kém, vào ngày cuối cùng của năm, họ mua quần áo cũng làm bằng hoa giấy và đốt chúng. Họ thắc mắc rằng mã này biến thành áo mới, vải đẹp để dùng trong năm mới. Do đó, chúng tôi đã công khai đả kích mê tín dị đoan và chế giễu phong tục đặc biệt này” (2). Đọc những dòng trên, người ta cũng có thể ngạc nhiên, bởi cho đến ngày nay nhiều người vẫn “điên” và có lẽ còn điên hơn nữa vì họ sống trong thời đại khoa học hiện đại, trình độ học vấn cao hơn học trò. 400 năm rồi nhưng người ta đốt vàng mã hết lần này đến lần khác, kỳ dị hơn từ ô tô đến mô hình thu nhỏ, từ tiền giả đến tiền thật...
Nhiều phong tục khác của người dân Bắc Kỳ thời bấy giờ cũng bị coi là xa lạ với thế giới phương Tây. Chẳng hạn như việc chọn “ngày lành, tháng tốt” để bắt đầu công việc nào hay những điều cấm kỵ vô lý: “Nếu buổi sáng ra khỏi nhà để làm một việc gì đó tốt và quan trọng đối với kết quả công việc thì S’ gặp phụ nữ nhưng đàn ông thì không, họ về nhà ngồi ủ rũ ở nhà, nghĩ rằng (nếu tiếp tục) sẽ thất bại, dù biết rằng nếu bỏ cuộc là sẽ mất' (3 ). Hay ngay cả việc đặt tên cho con cũng tùy theo quan niệm riêng. Đắc Lộ viết: “Người Bắc kỳ đặt tên đổi họ cũng mê tín lắm. Ví như đứa trẻ chết, họ tránh đặt tên đó cho đứa trẻ khác vì sợ tà ma, chúng cho rằng mình đã giết đứa trẻ mới sinh, nay nghe nói tên này được đặt cho đứa trẻ mới sinh. bị giết như thể đã giết đứa con đầu lòng. Cũng vì tin rằng những con quỷ độc ác, ghen tuông và xảo quyệt gây ra đủ loại bệnh tật và tai họa cho con cái nên họ thường đặt cho con những cái tên xấu xí, bẩn thỉu. Họ dại dột nghĩ rằng với cái tên ô uế này, họ chắc chắn rằng ma quỷ hay ác quỷ không dám động đến con mình. Họ không biết rằng những người công khai ghét tài sản, sức khỏe của mình chỉ thích rác rưởi” (4). để chôn cất người chết, đặc biệt là người thân: "Họ ngu ngốc tin rằng tất cả vận may, sự giàu có, danh tiếng và thậm chí cả sức khỏe của gia đình đều phụ thuộc vào việc chọn vị trí để chôn cất. Để làm điều này, họ sử dụng những người lừa dối biết thuật xem cát và đất gọi là thầy địa lý Anh ta ra đồng làm ruộng và sử dụng một vài công cụ toán học khác, cặm cụi như mò vàng, cuối cùng giả vờ tìm được chỗ chôn xác phù hợp, đương nhiên người thừa kế phải trả công. , họ khá hào phóng và lập tức đảm nhận việc chuẩn bị, bố trí mặt bằng theo mệnh lệnh và chỉ dẫn của kẻ gian đã lấy được đất tốt”(5). Nhiều lá thư chung của các giám mục từ rất sớm đã nghiêm cấm các tập tục mê tín dị đoan, bị coi là “rắc rối”. Chẳng hạn, ngày 7-6-1759, Giám mục giáo phận Đông Đàng Ngoài (Santiago Hernandez Tuan) công bố một bức thư cấm “36 điều phiền phức ở An Nam”: “Cuộn xác đàn ông 7 lần, đàn bà 9 lần, và cùng một đại diện. , tiểu liệm cấm; Đạo gốc bắt chước ngoại đạo bốc mộ, cải táng chỗ này chỗ kia để cầu may thì sẽ gặp họa". sự ghen ghét của bọn ác ma rồi đứa thứ hai lâm bệnh không thuốc chữa nên lúc đứa nhỏ này chết đầu tiên chúng đem nó ra ruộng rồi dùng dao chém nó làm đôi một cách dã man, tưởng rằng chúng sẽ làm cho bọn ác ma bất ngờ với hành động vô nhân đạo này. hành động và dọa nạt anh ta, để anh ta không làm hại những đứa trẻ khác sẽ được sinh ra sau này, vì vậy, tà linh đã khiến chúng trở nên bất nhân… Vì vậy, những người cải đạo ngày nay rất sợ hãi, vì vậy họ rất quan tâm đến việc ngăn cản những người bình thường. phạm tội ác”(6). Việc các giáo sĩ công kích, chế giễu, cản trở các tập tục trên là một bằng chứng cho thấy đạo Công giáo không chấp nhận các hủ tục mê tín, dị đoan.
2. Đạo Công giáo phê phán các hủ tục lạc hậu và các tệ nạn xã hội.
Bên cạnh việc phản đối các hành vi mê tín, dị đoan, đạo Công giáo còn phê phán gay gắt các hủ tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội trong cộng đồng. Một hiện tượng phổ biến trong đời sống của người Việt cổ là đàn ông có “năm vợ, bảy thiếp”. Hình như càng có nhiều thê thiếp thì càng có uy quyền và quyền lực: nam chính thường ít vợ; Con gái chính thống chỉ có một chồng. Nhưng chính lối sống ấy đã khiến biết bao phụ nữ bị xâm hại. Nhà thơ Hồ Xuân Hương phải thốt lên chua xót:
Chém cha cả đời lấy nhau
Cái chăn, cái lạnh
Giáo lý Công giáo quy định hôn nhân một vợ một chồng. Đó là một khái niệm tiến bộ ngay cả trong thế giới văn minh ngày nay. Tất nhiên, khi khái niệm này được phổ biến, nó đã bị phản đối kịch liệt. Chính chúa Trịnh ra chiếu đầu tiên cấm đạo Công giáo cũng vì lý do như vậy. Bức thư có nội dung: “Bạn dạy tôn giáo nào ở đất nước chúng tôi? Bạn ra lệnh cho người dân của tôi chỉ lấy một vợ và tôi muốn có nhiều con để chung thủy với tôi. Từ giờ trở đi, hãy bỏ qua lời nói dối này. Nếu anh không tuân theo, tôi sẽ chặt đầu anh và từ nay cấm anh làm điều tôi cấm” (7). Nhiều hương ước làng Công giáo xưa có những quy định khá chặt chẽ về hôn nhân chung thủy. Hương ước làng Vĩnh Trị ghi rõ tại Điều 103: “Tất cả các làng theo đạo Công giáo chỉ được phép có gia tiên và hậu tự. Vậy ai lấy vợ cả mà lấy vợ hai thì làng không được ăn uống với họ nữa, để khỏi làm gương xấu cho người khác.” Điều 67 Hương ước làng Nam Am quy định: “Lại nữa, các người bắt buộc, theo luật tôn giáo không được lấy vợ lẽ, ai phạm tội tà dâm. Con ngoại tình, con chung sống, con đến tuổi khai môn phải nộp phạt cho làng 5.000 đồng. Thủ tục cưới hỏi ở các làng Công giáo cũng đơn giản và ít tốn kém hơn so với tục lệ phổ biến hiện nay. Điều 63 của Hương ước làng Nam Am quy định:
“Ngày trước cưới có 6 lễ, nhưng nay chỉ còn 3 lễ như sau:
1. Lễ gọi tên hay thường gọi là lễ cấp sắc của người phụ nữ. Mọi chuyện bắt đầu khi hai bên cha mẹ gặp nhau nói chuyện, so sánh tên tuổi, ngày tháng năm sinh của các con và đi đến quyết định về hôn nhân của đôi trẻ. Lễ vật là chè, cau, bánh trái trị giá vài đồng. 2. Lễ đính hôn: Hôm nay nhà trai để vợ chồng chú rể làm lễ sang nhà gái. Vào ngày này, chú rể đến nhà thờ để gặp họ hàng của vợ. Cả hai bên đã thống nhất ngày cưới và tranh cãi về hôn nhân. Tiền quyên góp tùy theo giàu nghèo mà có giá trị từ 3 đến 20 đồng. 3. Lễ cưới: Vào ngày này, chú rể, bố vợ và họ hàng hai bên sang nhà gái đón dâu với sính lễ và tiền bạc. Nhà gái cũng cho phép cha mẹ đưa cô dâu về nhà chồng. Tiền của, của cải tùy theo giàu nghèo, nhưng chung quy cũng đáng giá 1 vạn, 20 hay 3 vạn.” (8). Theo một thống kê, sau 8 năm thi hành luật hôn nhân và gia đình ở Việt Nam, có 22.049 vụ ly hôn. Mỗi năm, số vụ ly hôn tăng từ 10 đến 12%. Ở Hà Nội, cứ 20.000 cuộc kết hôn thì có 4.500 cuộc ly hôn. Trong khi đó ở xã Hải Vân (Hải Hậu, Nam Định) nơi có 6.000 giáo dân sinh sống, thời gian này chỉ có 2 cặp vợ chồng bỏ nhau. Ngay cả một nhà thờ ở ngoại thành Hà Nội là Ngọc Hồi, nơi có 1500 giáo dân nhưng từ năm 1945 chỉ có 1 cặp vợ chồng ra ở riêng. Vì vậy, chung thủy một vợ một chồng là một nét đẹp trong lối sống Công giáo và thu hút những người ngoài Công giáo đến với tôn giáo này. Năm 2001, trong số 121.667 người cải sang đạo Công giáo, có 35.096 người cải đạo để kết hôn với người Công giáo. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên đang tồn tại tình trạng uống rượu bia quá mức không chỉ gây tốn kém mà còn rất có hại cho sức khỏe. Giám mục Paul Seitz Kim đã lên án tập tục này và coi đây là một trong những yếu tố phá hủy cuộc đua trên đồi ở đây. Bức thư chung ngày 19-12-1958 viết:
“Trong bức thư chung năm 1956, tôi đã giải thích chủ đề này với bạn. Anh em Mục sư vui mừng, bản thân tôi cũng vui mừng khi thấy một số đông người dân ý thức được điều ác đang đe dọa mình và sẵn sàng vâng lời tôi. Hơn một năm qua, anh em đã rất nỗ lực bài trừ nạn nghiện rượu. Hôm nay tôi chúc mừng bạn và tôi đảm bảo với bạn rằng Chúa hạnh phúc và ban phước cho bạn. Ở đây, tôi chỉ nhắc lại hai điều: Không những nên hạn chế rượu vừng thường uống, mà trên hết, nên kiêng rượu trắng. Vì muốn kiếm tiền, những thương nhân đã không ngần ngại bán cho bạn với giá rất đắt thứ thuốc độc đã giết chết nòi giống của bạn. Phải từ chối không mua. Cấm những người mang rượu trắng ra khỏi làng bán. Nói với họ rằng bạn không muốn đồ của quỷ, mà chỉ muốn họ bán men, khăn giấy, những thứ hữu ích và tốt, thức ăn. Và bạn sẽ thấy rằng những người buôn bán sẽ không còn mang rượu trắng đến cám dỗ bạn nữa, và họ sẽ đồng ý bán cho bạn những thứ khác. Giống như vấn đề ma túy. Hãy can đảm để nói với những người lớn tuổi và các quan chức chính phủ của bạn: chính phủ chắc chắn sẽ hỗ trợ bạn thực hiện quyết định của mình. Các con nên biết rằng từ nay trở đi, tôi truyền lệnh cho tất cả các linh mục không được giải tội và ban bí tích cho những người cố tình mua và uống rượu trắng để say. Ngoài ra, tôi xin nhắc lại hàng năm các bô lão trong làng phải triệu tập đại hội để cùng đọc chung thư và bệnh rượu chè, kịp thời tìm ra biện pháp bài trừ căn bệnh này ở mỗi làng. Hội nghị này là mệnh lệnh mà vị giám mục anh em đã công bố và phải tuân theo. Hãy yên tâm: điều kiện sống còn thứ tư của người Thượng là bài trừ chứng nghiện rượu. Vào những năm cuối thế kỷ 20, khi cả nước phải đối phó với nạn ma túy, kéo theo nhiều vấn đề xã hội khác, đặc biệt là HIV/AIDS, ĐHY Phạm Đình Tụng đã công bố một lá thư chung vào ngày 22 tháng 10. rằng tất cả mọi người hãy chung tay ngăn chặn và tẩy sạch cái ác này khỏi gia đình và làng xóm của chúng ta. Con xin Thầy giảng về những tệ nạn của tệ nạn này để mọi người hiểu rõ. Mỗi quốc gia phải có kế hoạch khảo sát và phát hiện kịp thời số lượng người hút thuốc lá. Cha mẹ cần thường xuyên giám sát con cái, không cho con đến những nơi có nguy cơ lôi kéo, giao du với người nghiện ma túy. Đối với những người đã nghiện thì khuyên nhủ họ trên tinh thần bác ái và làm mọi cách để giúp họ sớm cai nghiện, nếu không bệnh của họ sẽ lây sang người khác nhanh như vết dầu loang.” cũng là một vấn đề lớn của đất nước hiện nay. Ước tính mỗi ngày ở Việt Nam có 30 người chết vì tai nạn giao thông. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng căn nguyên vẫn là ý nghĩa của người tham gia giao thông. Trước tình hình đó, nhiều giáo phận đã tổ chức các khóa tu học mã lộ cho giáo dân, nhất là giới trẻ. Trong thư chung ngày 10-9-2004, Giám mục Thái Bình Nguyễn Văn Sang nhắc lại: “Thanh niên nam nữ không đua đòi, đùa giỡn với mạng sống của mình và của người khác; Nên kiểm tra xe thường xuyên trước khi di chuyển. Ví dụ, đội mũ bảo hiểm, đèn phanh và lái xe cẩn thận; Phải đấu tranh với những phần tử cố ý hoặc vô ý vi phạm luật giao thông.” Việt Nam hiện đang hội nhập mạnh mẽ với thế giới, xây dựng nền kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đây là xu thế phát triển tất yếu, hứa hẹn nhiều thành công nhưng cũng tiềm ẩn không ít thách thức như một số nhà nghiên cứu đã nhận định: đó là cơ hội ngàn vàng đi liền với những tai họa đen tối. Đứng trước tình hình này, các Giám mục Việt Nam trong Thư chung năm 2001 đã cảnh báo: “Tình hình đang thay đổi sâu sắc và nhanh chóng do tác động của xu thế toàn cầu hóa. Đây đó ở cấp quốc gia, mức sống của người dân còn thấp, lực lượng lao động không đủ; Tính mạng chưa được tôn trọng và bảo vệ đúng mức, thường xuyên bị đe dọa bởi thiên tai, môi trường bị hủy hoại, tai nạn giao thông và các tệ nạn như nghiện hút, mại dâm, HIV/AIDS. Gian lận có xu hướng phổ biến trong xã hội, chẳng hạn như sản phẩm giả, bằng cấp giả, hối lộ và tham nhũng. Hơn nữa, khoảng cách giàu nghèo, giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn, tạo ra làn sóng di cư về thành thị… Thực trạng xã hội này đặt ra nhiều thách thức. Nền kinh tế thị trường có xu hướng biến mọi thứ thành hàng hóa và có nguy cơ lấy tiền làm thước đo cho mọi thứ. Tóm lại, qua giáo huấn và qua nếp sống tôn giáo của người tín hữu, đạo Công giáo cùng với các tôn giáo chân chính khác đã góp phần làm lành mạnh hóa đời sống văn hóa xã hội của Việt Nam.
Nội dung bài viết:
Bình luận