
1. Tìm hiểu thêm về nhận thức:
Trước khi cùng nhau phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức, chúng ta phải hiểu rõ về nhận thức. Nhận thức định nghĩa cơ bản là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ não con người trên cơ sở hiện thực, nhằm có thể sáng tạo ra tri thức về thế giới khách quan đó. Quan niệm được nêu cụ thể ở trên về nhận thức thực chất chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức. Trên thực tế, khái niệm cụ thể này bắt nguồn từ 4 nguyên tắc cơ bản như sau:
- Nguyên tắc thế giới vật chất luôn tồn tại khách quan, thế giới vật chất độc lập với ý thức con người.
- Nguyên tắc thừa nhận tất cả con người đều có khả năng nhận thức thế giới khách quan bằng chính bộ não của con người, đó cũng chính là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; nguyên tắc thừa nhận không có cái gì không thể nhận thức được, nhưng thực ra chỉ có những cái con người chưa thể nhận thức được.
-Nguyên tắc khẳng định phản ánh là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình tư duy này thực chất sẽ diễn ra theo một trình tự cụ thể đi từ chưa biết đến biết, từ biết đến ít, từ chưa sâu, chưa đầy đủ đến sâu hơn và đầy đủ hơn và nhiều quá trình khác nhau.
- Nguyên tắc coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất của nhận thức; Thực tiễn còn là động cơ, là mục tiêu của nhận thức và là tiêu chuẩn để có thể kiểm nghiệm chân lý.
2. Phân tích diễn tiến biện chứng của quá trình nhận thức:
Như đã trình bày chi tiết ở trên, chúng ta thấy rằng, theo triết học Mác - Lênin, nhận thức không chỉ là sự phản ánh thụ động, mà là một quá trình biện chứng. Theo Lênin đã đưa ra một quan điểm cụ thể như sau: “Từ trực giác sinh động đến tư tưởng trừu tượng, từ tư tưởng trừu tượng đến thực tiễn - đây là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của nhận thức chân lý. hiện thực khách quan”. Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng, hành trình biện chứng của quá trình nhận thức thực chất sẽ bao gồm hai giai đoạn sau: – Nhận thức cảm tính bao gồm: cảm giác; Giác quan; Biểu tượng. Như sau: Nhận thức cảm tính (trực giác sinh động) thực chất được hiểu là tri thức do các giác quan mang lại. Đặc trưng cơ bản ở giai đoạn nhận thức cảm tính (trực giác sinh động) là nhận thức sẽ được hiện thực hóa gắn trực tiếp với hiện thực thông qua các thang đo cụ thể như cảm giác, tri giác, biểu hiện. Các thành phần của nhận thức cảm tính (trực giác sống động) là: Cảm giác về cơ bản được hiểu là tri thức nảy sinh do sự tác động trực tiếp của các sự vật, hiện tượng lên các giác quan cụ thể của con người. Cảm giác phản ánh mọi mặt, mọi khía cạnh, mọi thuộc tính riêng của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác này là thế giới khách quan, và bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới này.Tri giác thực chất được hiểu là sự tổng hợp nhiều cảm giác riêng biệt thành một mối liên hệ thống nhất và từ đó đã tạo nên một bức tranh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng. Các biểu tượng sẽ được hình thành dựa trên sự phối hợp và bổ sung của các giác quan, đồng thời quá trình này cũng bao gồm các yếu tố cụ thể như phân tích, trừu tượng hóa và khả năng tiếp nhận thông tin từ bộ não con người. Thực tế chúng tôi nhận thấy đây cũng là thang bậc cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính. Nó còn là một bức tranh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng và nó được ghi vào bộ não con người và do có những tác động nhất định tái diễn khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong phạm vi cảm tính nữa. Trong biểu tượng còn có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu tượng, con người đã hình dung được những khác biệt, mâu thuẫn cơ bản, nhưng con người vẫn chưa hiểu được những điều cơ bản để tự chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này thành sự vật, hiện tượng khác. – Nhận thức lý luận bao gồm: khái niệm; Phán xét; Suy diễn. Chúng tôi thấy rằng nhận thức duy lý sẽ đến từ trực giác nhạy bén và nhận thức duy lý cũng sẽ đến từ những lập luận được truyền lại. Nhận thức lý tính cũng đã góp phần có thể phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. Cụ thể về các thành phần của nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm được hiểu cơ bản chính là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm thực chất sẽ vừa có tính khách quan, bên cạnh đó thì nó lại vừa có tính chủ quan khi thực hiện phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của các sự vật, hiện tượng dựa vào sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin mà nó đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Phán đoán được hiểu cơ bản chính là hình thức tư duy thực hiện việc liên kết các khái niệm lại với nhau để nhằm mục đích có thể khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính cụ thể nào đó của sự vật, hiện tượng; phán đoán cũng chính là hình thức được sử dụng để có thể phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và giúp có thể diễn đạt các quy luật khách quan. Suy luận (suy lý) được hiểu cơ bản chính là hình thức của tư duy thực hiện việc liên kết các phán đoán lại với nhau để nhằm mục đích có thể thông qua đó rút ra tri thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề. Suy luận trong thực tế đóng vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng ngày nay, vì trên thực tế suy luận đã giúp chỉ ra sự vận động của tư duy từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp về cái chưa biết.
3. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và hiện thực:
Như đã trình bày chi tiết ở trên, chúng ta thấy rằng nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính thực chất là những giai đoạn tạo nên chu trình nhận thức. Trên thực tế, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính thường diễn ra đan xen với nhau trong một quá trình nhận thức, tuy nhiên, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Nếu như nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, sự tác động của đối tượng cảm tính, nhận thức cảm tính còn là cơ sở của nhận thức lý tính, thì nhận thức lý tính, bằng khả năng khái quát cao, nhận thức lý tính có thể hiểu được bản chất, quy luật vận động, phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng, từ đó nhận thức lý tính đã giúp cho nhận thức cảm tính định hướng và đi sâu. Tuy nhiên, ta nhận thấy rằng, trong thực tiễn, nếu như chúng ta chỉ dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người sẽ mới chỉ có được những tri thức cơ bản về đối tượng còn bản thân những tri thức đó liệu trên thực tế có thật sự chính xác hay không thì thực chất con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức cũng đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có sự chân thực hay không. Để nhằm mục đích có thể thực hiện được điều này thì nhận thức nhất thiết sẽ cần phải trở về với thực tiễn, nhận thức phải dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo đối với tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Không những thế, ta cũng thấy rằng, mọi nhận thức suy đến cùng thì cũng sẽ đều cần phải là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại để có thể phục vụ thực tiễn. Thông qua đó, chúng ta cũng có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận động, phát triển của nhận thức cụ thể đó là từ thực tiễn đến nhận thức, từ nhận thức trở về với thực tiễn và từ thực tiễn cũng sẽ vẫn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức,… Trên thực tế thì quá trình này sẽ lặp đi lặp lại liên tục và sẽ không có điểm dừng cuối cùng, thông thường thì trình độ của nhận thức và thực tiễn ở những chu kỳ sau thông thường thì sẽ cao hơn khi thực hiện so sánh với chu kỳ trước, cũng chính vì vậy mà càng ngày th quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và có sự sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Nội dung bài viết:
Bình luận