Cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 2013

Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vậy quyền tư pháp là gì? Bài viết đưa ra một số hiểu biết cá nhân về vấn đề này.

Sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 2013 | Luật sư bảo hộ quyền  lợi, tư vấn pháp luật
Cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 2013

1. Tư pháp là gì?

Quyền tư pháp có thể được hiểu là khả năng và năng lực duy nhất của Tòa án trong việc thực hiện các quyền tư pháp và các quyền khác theo một cách nhất định để tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển của xã hội. Đây là quan niệm chung nhất về quyền tư pháp xác định những yếu tố cấu thành quan trọng nhất của quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp. Đó là: tư pháp là khả năng và năng lực duy nhất của Tòa án; quyền tư pháp được thực hiện thông qua việc thực hiện quyền tư pháp và các quyền khác; quyền tư pháp được thực hiện thông qua tố tụng tư pháp; Quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển của xã hội. Nội dung của các thành tố quan trọng này được hiện thực hóa cụ thể thông qua việc phân tích bản chất, phạm vi, nội dung, chủ thể, phương thức và việc thể chế hóa quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp.

2. Đặc điểm của ngành tư pháp Việt Nam

Qua việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của khái niệm quyền tư pháp và thực trạng quyền tư pháp ở nước ta hiện nay, có thể nêu bật những đặc điểm (đặc trưng) của pháp luật tư pháp Việt Nam hiện nay như sau: tính độc lập, thống nhất, phối hợp, kiểm soát của quyền tư pháp hơn quyền hành pháp, tính chính trị (do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo). Tất nhiên, nghiên cứu cho thấy mức độ độc lập, mức độ kiểm soát của tư pháp đối với quyền hành pháp ở nước ta không giống như ở các nước phân quyền tuyệt đối.
Về mặt nghiên cứu, hiện nay các luật gia nước ta có nhiệm vụ quan trọng là tiến hành nghiên cứu để luận giải, làm rõ một cách thấu đáo, toàn diện và có hệ thống những đặc điểm nêu trên của pháp luật tư nhân, pháp luật hiện hành và pháp luật dân sự. thực hiện các quyền hợp pháp. và xu hướng vận động của họ trong thời gian tới, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm củng cố, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp. Việc đạt được nhiệm vụ này có ý nghĩa nhận thức lý luận hết sức quan trọng đối với việc tìm hiểu lý luận về quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.

2.1 Tính độc lập của tư pháp và việc thực thi quyền tư pháp

Tính độc lập của ngành tư pháp là đặc điểm trung tâm của ngành tư pháp hay nói cách khác là đặc điểm của nó. Đồng thời, tính độc lập của ngành tư pháp cũng là một giá trị cốt lõi của ngành tư pháp. Trong các đặc điểm chung của cơ quan tư pháp trong bất kỳ nhà nước pháp quyền nào, tính độc lập của cơ quan xét xử là một đặc điểm cố hữu và tất yếu. Không có độc lập thì không thể có tư pháp. Nếu tính độc lập không được bảo đảm đầy đủ, thì không thể có một nền tư pháp chính thức. Tư pháp độc lập để thực hiện chức năng rất quan trọng của quyền lực nhà nước là áp dụng đúng pháp luật, xét xử để bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật và khôi phục các quyền bị vi phạm. . Tính độc lập của Tòa án tất yếu dẫn đến tính độc lập của việc thực hiện quyền tư pháp.

Tính độc lập của quyền tư pháp và của thực hiện quyền tư pháp thể hiện ở những nội dung sau: độc lập về vị trí, vai trò trong cơ chế quyền lực nhà nước; độc lập về quyền năng; độc lập về chủ thể thực hiện: độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm pháp và hội thẩm nhân dân khi xét xử; độc lập về phương thức thực hiện quyền năng: tố tụng tư pháp; chỉ tuân theo pháp luật; độc lập trong việc đưa ra phán quyết (bản án, quyết định); nghiêm cấm mọi sự can thiệp, mọi sự gây áp lực. Nói cách khác, đó là độc lập về tổ chức và độc lập về hoạt động.

2.2 Tính thống nhất, tính phối hợp của quyền tư pháp ở nước ta

Tính thống nhất của quyền tư pháp ở nước ta thể hiện ở chổ quyền lực nhà nước là thống nhất: thống nhất về bản chất, về mục tiêu, về định hướng hoạt động, bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; sự thống nhất không có nghĩa là giao cho một cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước; kỹ thuật tổ chức và thực hiện quyền lực là có sự phân công, phối hợp, giám sát để thực hiện quyền lực nhà nước đúng quỷ đạo, hiệu quả.
Tính phối hợp của quyền tư pháp ở nước ta được hiểu ít nhất ở hai phương diện: 1, sự phối hợp của quyền tư pháp với quyền lập pháp, với quyền hành pháp trong thực hiện quyền lực thống nhất; 2, sự phối hợp của cơ quan tư pháp (Toà án) với các cơ quan tham gia thực hiện quyền tư pháp (Viện kiểm sát, cơ quan công an, cơ quan thi hành án). Có thể gọi đó là sự phối hợp bên ngoài và sự phối hợp bên trong. Đây là một đặc điểm riêng của nền tư pháp nước ta. Vấn đề ở đây là phối hợp ở đâu và như thế nào, mối quan hệ giữa phối hợp với việc bảo đảm tính độc lập của tư pháp. Trong mọi trường hợp, sự phối hợp giữa hoạt động xét xử và hoạt động xét xử không được làm suy yếu tính độc lập của hoạt động xét xử và hoạt động xét xử, bởi tính độc lập là đặc trưng cơ bản, là giá trị cơ bản của quyền xét xử. Ở những quốc gia mà quyền lực nhà nước được thực thi trong khuôn khổ của một hệ thống phân quyền, đặc điểm này không tồn tại, ở đó quyền tư pháp được cân bằng với quyền lập pháp, quyền hành pháp, tòa án là người phân xử của người tố cáo và người tố cáo. thủ phạm, không hợp tác với bất kỳ bên nào trong quá trình tố tụng.

2.3 Sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp, quyền hành pháp

Sự kiểm soát của cơ quan tư pháp đối với quyền lập pháp thể hiện ở vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Tòa án Hiến pháp, đó là chức năng kiểm sát và bảo vệ Hiến pháp. Tòa án Hiến pháp có quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật đã được ban hành và có quyền xem xét một đạo luật do Quốc hội (Nghị viện) ban hành là vi hiến. Cơ chế chung bảo vệ Hiến pháp ở nước ta được ghi nhận tại Điều 119 Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Theo đó, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát. Nhà nước và toàn dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

2.4 Chính sách

Trong các chế độ đa nguyên, cơ quan tư pháp không mang tính chính trị, không thuộc đảng phái chính trị nào. Trong nhất nguyên chính trị, tư pháp là một phần của quyền lực chính trị. Ở nước ta, tư pháp mang tính chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo tư pháp. Đây là một nét đặc trưng của nền tư pháp nước ta. Câu hỏi quan trọng ở đây là làm thế nào để việc quản lý vẫn có thể đảm bảo tính độc lập của ngành tư pháp.

3. Cơ quan tư pháp theo quy định của Hiến pháp 2013

Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 4 Hiến pháp 1959 quy định điều này). Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992); trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Suốt thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước từ năm 1945, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2002; khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Như vậy, ở Việt Nam không có sự phân chia quyền lực, vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam có nhiều điểm đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế giới.
Trước Hiến pháp 2013, chưa có một văn bản pháp luật quy định cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào, điều này chỉ được thể hiện qua chủ trương của Đảng nêu trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW) lần đầu tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính sách của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội dung công tác tư pháp và các cơ quan tư pháp có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp tục nhấn mạnh hệ thống các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hành quyền xét xử; Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự, cơ quan có trách nhiệm thi hành án. Ngoài các cơ quan tư pháp nói trên, Nghị quyết 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động của luật sư, cảnh sát tư pháp, cơ quan giám định, hoạt động công chứng và thống kê tư pháp là các hoạt động. Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các thiết chế tư pháp bổ sung này là một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và nâng cấp các thiết chế bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp.
Như vậy, theo nghị quyết của Bộ Chính trị, cơ quan tư pháp Việt Nam bao gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát, cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án. Như vậy, công tác tư pháp hay hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động trọng tài và hoạt động thi hành án. Nếu như ở nhiều nước “tư pháp” là xét xử và cơ quan xét xử là Tòa án thì ở Việt Nam “tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, là tổng thể của tất cả các hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. . Ngoài ra còn có các hoạt động trợ giúp pháp lý như luật sư, công chứng, đấu giá, giám định tư pháp. Hiện nay, trong nhận thức của nhiều người, cơ quan tư pháp còn bao gồm các cơ quan thuộc ngành tư pháp, từ trung ương đến địa phương (bộ tư pháp, sở tư pháp và phòng tư pháp cấp huyện). Sự khác biệt giữa nhận thức và thiết kế hệ thống tư pháp ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới bắt nguồn từ sự khác biệt trong cách thức tổ chức và điều hành xã hội. Nhiều nước trên thế giới tổ chức bộ máy quyền lực điều hành xã hội theo học thuyết tam quyền phân lập, bao gồm phân định quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các quyền này độc lập, cân đối, cân bằng và hạn chế lẫn nhau nhằm tránh lạm quyền, độc quyền, độc tài; bảo đảm dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân được thực hiện theo hiến pháp và pháp luật. Việt Nam không theo học thuyết này mà tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung vào tay nhân dân; Nhân dân giao việc thực hiện quyền hạn của mình cho những người đại diện là các cơ quan của Nhà nước. Có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Nhà nước trong việc thực hiện quyền năng này, đó là các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì không có tam quyền phân lập nên theo quan điểm này, ở Việt Nam không có quyền tư pháp theo nghĩa mà nhiều nước trên thế giới hiện nay quan niệm.
Khoản 2, Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định:
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Với quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp khẳng định cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam là Tòa án nhân dân, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với giai đoạn trước hiến pháp năm 2013, tư pháp và các cơ quan xét xử đã được định hình và hạn chế, dẫn đến nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam có những thay đổi. Với đặc điểm tổ chức các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất, việc phân định rõ thẩm quyền xét xử của các cơ quan khác có liên quan đến hoạt động tư pháp, không phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác, cần có thời gian để đạt được sự đồng thuận trong việc cảm hóa và hoạt động của các cơ quan liên quan đến tư pháp, phù hợp với tinh thần mới của nhà nước Hiến pháp 2013 đã tiếp cận với khái niệm tư pháp của nhiều nước trên thế giới. Việc hiểu đúng về tư pháp và quyền xét xử trong bối cảnh Hiến pháp mới được ban hành không chỉ là những câu hỏi lý luận mà có tác động trực tiếp đến việc định hướng cải cách tư pháp và thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay . .

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo