Hình phạt tử hình có phải là biện pháp ngăn chặn tội phạm duy nhất có hiệu quả không? Nó có vi phạm quy định về quyền sống được ghi nhận trong Luật quốc tế về quyền con người và đi ngược lại với xu hướng tiến bộ trên thế giới hay không?
Điều 3 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu rõ quyền sống là quyền đầu tiên và cơ bản nhất của con người. Điều 6(1) của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966) quy định quyền này. Nhận thức rằng mọi người đều có quyền sống và được pháp luật bảo vệ, không ai có thể bị tước đoạt mạng sống một cách tùy tiện. Khoản 2 điều này quy định “ở những nước chưa bãi bỏ hình phạt tử hình thì hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng nhất theo pháp luật hiện hành tại thời điểm phạm tội”. Các điều khoản của hợp đồng này không được vi phạm…” Luật pháp quốc tế công nhận quyền sống là quyền cơ bản của con người, nhưng không cấm sử dụng hình phạt tử hình. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt này ở mỗi nước khác nhau, tùy thuộc vào cách hiểu của mỗi nước về “tội nghiêm trọng nhất”. Luật pháp ở nhiều nước trên thế giới quy định hình phạt nghiêm khắc này đối với nhiều tội danh khác nhau (phản quốc, giết người, hiếp dâm, ngoại tình, v.v.). Theo thời gian, phạm vi tội phạm áp dụng hình phạt tử hình trên toàn thế giới đã thu hẹp lại. Các tội phạm mang tính chất chính trị, tôn giáo hay tình dục đang dần được loại bỏ khỏi danh sách các tội phạm áp dụng hình phạt tử hình.

có nên xóa bỏ án tử hình hay không
Hiện nay, 89 quốc gia trên thế giới đã bãi bỏ án tử hình, 28 quốc gia chưa xử tử ai trong thập kỷ qua và 9 quốc gia chỉ sử dụng hình phạt tử hình trong những trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như tội phạm chiến tranh), 74 quốc gia vẫn áp dụng hình phạt tử hình (Nguồn: https://)/en.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AD_h%C3%ACnh). Các quốc gia đã bãi bỏ hình phạt tử hình cho rằng hình phạt tử hình cũng có tác dụng ngăn chặn tội phạm như bất kỳ hình phạt nào khác. Các nghiên cứu của Liên hợp quốc (1988, 1996, 2002) về mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và tỷ lệ tội phạm ở nhiều nước trên thế giới kết luận rằng: Bằng chứng khoa học cho thấy hình phạt tử hình có tác dụng răn đe tội phạm hiệu quả hơn là áp dụng hình phạt tù chung thân. Nghiên cứu nổi tiếng nhất chứng minh rằng hình phạt tử hình không có tác dụng tốt trong phòng chống tội phạm là của nhà tội phạm học Torsten Sellin. 1959. Trong cuốn sách này, Torsten Sellin lập luận rằng “hình phạt tử hình không có tác dụng bằng tù chung thân trong việc ngăn chặn tội phạm”. Ông lập luận rằng tội phạm hiếm khi xem xét những hậu quả có thể xảy ra trước khi phạm tội, ngay cả khi họ nghĩ rằng mình sẽ không bị bắt (AI, Án tử hình: Hỏi và Đáp http://www.amnesty .org/en/death-penalty). Do đó, giả định rằng hình phạt tử hình đặc biệt có hiệu quả trong việc răn đe tội phạm phần lớn chỉ mang tính suy đoán. Hơn nữa, nhiều nhà tội phạm học khác cũng cho rằng các lập luận ủng hộ hình phạt tử hình trong phòng chống tội phạm có động cơ mang tính cảm xúc và chính trị cao (ở các nước phương Tây, vấn đề duy trì hình phạt tử hình thường được các chính trị gia đưa ra để lợi dụng mối lo ngại của công chúng). về án tử hình). Ngăn chặn tội phạm và giành phiếu bầu trong cuộc bầu cử. )
Những người phản đối hình phạt tử hình cũng cho rằng, sử dụng sự hành quyết để đáp trả hành động giết người là một sự trả thù và lặp lại hành động của kẻ phạm tội là không phù hợp với xã hội văn minh. Thêm vào đó, do hệ thống tư pháp hình sự không hoàn thiện nên luôn tồn tại nguy cơ kết án oan người vô tội và sai lầm này không thể khắc phục được nếu đã thi hành án.
Tuy nhiên, những nước duy trì hình phạt tử hình vẫn giữ nguyên quan điểm cho rằng hình phạt này là biện pháp có hiệu quả răn đe đặc biệt, không thể thay thế trong việc ngăn ngừa tội giết người cũng như nhiều loại tội phạm khác. Điển hình nhất là phương châm phòng, chống tội phạm của người Trung Quốc "sát nhất nhân, vạn nhân cụ" (giết một người để răn đe vạn người khác - Theo quan điểm này, cần áp dụng hình phạt tử hình cho những kẻ phạm tội ác nghiêm trọng như giết người để giúp những người khác nhận thức rõ đó là hành động sai trái sẽ mang lại những hậu quả thảm khốc cho kẻ phạm tội, từ đó ngăn ngừa người khác phạm tội ác tương tự)… Trên thực tế, đã có một số nghiên cứu đưa ra những số liệu thống kê ủng hộ tác dụng ngăn chặn vượt trội của hình phạt tử hình với tội giết người. Ví dụ, ở Anh, theo số liệu của Bộ Nội vụ nước này, tỷ lệ tội phạm giết người tăng lên gấp đôi kể từ khi hình phạt tử hình bị xóa bỏ. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ giết người giảm 26% từ năm 1993 đến năm 1997 do số lượng bản án tử hình được thông qua và số vụ hành quyết tăng lên. Mặt khác, những người phạm tội nghiêm trọng có khả năng tái phạm rất cao, khiến họ trở nên cực kỳ nguy hiểm cho xã hội. Nếu không áp dụng án tử hình, xã hội vẫn đứng trước nguy cơ bị đe dọa. Thoát hoặc thả thành công. Việc tước đi mạng sống của người phạm tội nghiêm trọng là phù hợp với công lý của “tù chung thân” và cũng nhân đạo hơn tù chung thân. Đối với tội phạm, điều kiện sống khắc nghiệt, án treo, án chung thân, án tù kéo dài với sự cay đắng của lương tâm có thể còn đau đớn hơn án tử hình. .
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng chỉ cần tù nhân còn sống thì vẫn có hy vọng tái hòa nhập xã hội, được giảm nhẹ, ân xá và trả tự do, ngay cả khi họ bị kết án tù chung thân. tội. Việc thực thi sẽ tước đi những cơ hội này của họ. Hơn nữa, hình phạt tử hình không chỉ gây đau đớn về thể xác cho phạm nhân khi thi hành án mà còn gây ra khủng hoảng tâm lý rất nghiêm trọng trong thời gian chờ đợi án tử hình. Vì vậy, hình phạt tử hình không thể nói là nhân đạo hơn hình phạt chung thân. Mặc dù còn nhiều tranh cãi về tính nhân đạo của hình phạt này so với tù chung thân nhưng nên so sánh chi phí của hai loại hình phạt này. "Việc không xem xét ý nghĩa của cuộc sống trong tù mà không được tạm tha sẽ ủng hộ hoặc thúc đẩy luật buộc 25 người phải làm việc trong tù suốt đời chỉ để giữ cho một người không bị trừng phạt." Theo quan điểm của những người phản đối án tử hình” (Xem Harvard Law Review, Số 119(6), trang 1838-1854, 2006).
Ở Việt Nam, phù hợp với xu hướng chung của thế giới, nhu cầu cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 đã thông qua loạt Nghị quyết về chính sách. . Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác tư pháp trong thời gian tới là: “Bộ chịu trách nhiệm phải xem xét hai vấn đề chính: hình thức thi hành án và giới hạn hình phạt tử hình.” Hạn chế số lượng án tử hình trong cơ cấu hình sự của Bộ luật hình sự. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng tiếp tục nhấn mạnh quan điểm trên về hình phạt tử hình. . Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 12, Luật sửa đổi, bổ sung nhiều điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được thông qua. Vì vậy, việc giảm một số tội phạm có thể áp dụng hình phạt tử hình từ Điều 29 xuống Điều 22 Bộ luật Hình sự 1999 cho thấy Việt Nam cũng đang đi theo xu hướng quốc tế là giảm áp dụng hình phạt tử hình. ảnh chụp.
Trong tương lai, khi kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển, nhận thức của người dân về tuân thủ pháp luật sẽ tăng lên, phạm vi điều chỉnh của pháp luật sẽ được thu hẹp, dẫn đến việc bãi bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình. Đời sống xã hội là một xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, việc bãi bỏ hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện đang là vấn đề cần được cân nhắc thận trọng trước những diễn biến phức tạp của bối cảnh tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm như giết người, tội phạm liên quan đến ma túy. Điều này thể hiện gánh nặng, áp lực đối với thể chế nhà nước, không chỉ có tác dụng trong việc tìm ra biện pháp phòng ngừa tội phạm mà còn ảnh hưởng đến tâm lý người dân. Người dân ủng hộ việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với tội phạm.
Nội dung bài viết:
Bình luận